Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 24/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH – TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 35/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 105/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2019 về: “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1997

Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã V, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc

Nơi ở hiện nay: Thôn N, xã X, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1996

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc, vắng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18 tháng 8 năm 2019 và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn Th kết hôn ngày 12/4/2017, trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu, tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã V, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Kết hôn xong chị về chung sống cùng gia đình anh Thành. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến tháng 01/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Th không chịu làm ăn, chơi bời, không quan tâm đến vợ con, xúc phạm chị và gia đình chị. Đến tháng 4/2019, chị về nhà bố mẹ đẻ chị ở tại thôn N, xã X cho đến nay, vợ chồng chị cũng đã tự hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Nay chị xác định vợ chồng không còn tình cảm, chị xin được ly hôn anh Nguyễn Văn Th.

Về con chung: Chị T xác nhận vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Nguyễn Thảo N, sinh ngày 27/11/2017 và cháu Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 10/01/2019. Hiện nay các cháu đang ở cùng chị. Ly hôn chị đề nghị được nuôi hai con và tự nguyện không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con chung cùng.

Tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: chị T xác nhận không có và không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Văn Th, quá trình giải quyết vụ án luôn vắng mặt, không có mặt để trình bay quan điểm và tham gia hòa giải tại Tòa án. Qua xác minh tại địa phương xã V và làm việc với mẹ đẻ anh Th là bà Nguyễn Thị D thì hiện nay anh Th đi làm ăn nhưng vẫn thỉnh thoảng có mặt ở địa phương. Việc Tòa án giải quyết ly hôn có gửi thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo hòa giải, và các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Th; anh Th có biết việc giải quyết ly hôn nhưng anh Th cố tình không đến. Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch đã tống đạt các giấy tờ, văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch phát biểu quan điểm về việc tuân thủ các quy định tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của đương sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị T, cho chị T được ly hôn anh Th; đề nghị giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung; tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: không có và không yêu cầu nên không xem xét; án phí: chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Trần Thị T xin ly hôn anh Nguyễn Văn Th và yêu cầu giải quyết vấn đề con chung. Vì vậy, quan hệ pháp luật trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn Th, Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng tại phiên tòa hôm nay tiếp tục vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào quy định tại Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 và Điều 233 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Văn Th nhưng vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Th theo quy định pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Trần Thị T và anh Nguyễn Văn Th là cuộc hôn nhân tiến bộ, hợp pháp, được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Vợ chồng kết hôn và đã có thời gian chung sống hòa thuận, hạnh phúc, nhưng theo chị T cung cấp: do anh Th không chịu làm ăn, chơi bời, không quan tâm đến vợ con, xúc phạm chị và gia đình chị.

Qua xác minh tại địa phương xã V và gia đình anh Th xác định: Do anh Th không chịu khó làm ăn, không quan tâm đến gia đình dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn, cãi nhau và hiện nay anh Th đi làm ăn nhưng thỉnh thoảng anh vẫn có mặt ở nhà tại thôn Đ, xã V, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, có biết việc chị T xin ly hôn và đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản, giấy tờ của Tòa án nhưng anh T không đến Tòa án làm việc. Điều đó thể hiện anh Th không có thiện chí hàn gắn tình cảm gia đình, cố ý vắng mặt gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

Xét, mâu thuẫn của vợ chồng chị T và anh Th đã trầm trọng, các bên đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng, không quan tâm, chăm sóc nhau và làm cho cuộc hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần giải quyết cho chị T được ly hôn với anh Th để giải phóng cho các bên đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

Về con chung: Xét về quyền và nghĩa vụ nuôi con chung của các bên là như nhau. Tuy nhiên, anh Th không đến Tòa án làm việc để thể hiện quan điểm của mình về việc nuôi con chung sau khi ly hôn, hơn nữa các cháu cũng đều dưới 36 tháng tuổi và bản thân chị T cũng tự nguyện xin được nuôi hai con chung, không yêu cầu anh Th đóng góp nuôi con chung cùng. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi, điều kiện được nuôi dưỡng của con chưa thành niên nên cần giao cho chị Tr trực tiếp nuôi hai cháu Nguyễn Thảo N, sinh ngày 27/11/2017 và cháu Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 10/01/2019 là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình; xác nhận chị T tự nguyện không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con chung cùng.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Chị T xác nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh Th không có mặt nên không có quan điểm và đề nghị của anh về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức, khi nào anh Th đề nghị sẽ xem xét giải quyết bằng một vụ án khác.

[3] Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 26 Luật thi hành án dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Xử cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn Th.

2. Xử về con chung: Giao cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu cháu Nguyễn Thảo N, sinh ngày 27/11/2017 và cháu Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 10/01/2019. Anh Th không phải đóng góp nuôi con chung cùng chị T.

Vì quyền lợi của con chung, sau khi ly hôn, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức đóng góp nuôi con. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: chị Trần Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000245 ngày 04 tháng 9 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lập Thạch.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 24/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:35/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về