Bản án 35/2017/HSST ngày 06/11/2017 về tội giết người và cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 35/2017/HSST NGÀY 06/11/2017 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 06 tháng 11 năm 2017 tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2017/HSST ngày 11/10/2017 đối với: 

Bị cáo: Trần Văn C, sinh năm 1979

Nơi ĐKNKTT: Khu 5, thị trấn T, huyện V, tỉnh Yên Bái. Chỗ ở hiện nay: Thôn 3, xã B, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 5/12; Con ông: Trần Văn M và bà Lê Thị E Bị cáo sống như vợ chồng với chị Trần Thị V, có 01 con sinh năm 2010

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/3/2017, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái; Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần N - Luật sư thuộc văn phòng luật sư Hoàng Hà - đoàn luật sư tỉnh Yên Bái

2. Người bị hại:

- Anh Hờ A D (đã chết)

Đại diện hợp pháp cho người bị hại: Ông Hờ Tráng L

Trú tại: Thôn 1, xã M, huyện TR, tỉnh Yên Bái. (có mặt)

-Anh Đinh Văn K, sinh năm 1980

Trú tại: Thôn 2, xã Th, huyện V, tỉnh Yên Bái

 (Hiện không có mặt tại địa phương)

NHẬN THẤY

Bị cáo Trần Văn C bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Trần Văn C cùng Nguyễn Thanh B, Đồng Văn Đ và Nguyễn Trung T là những người đi làm thuê trông lâm sản ở khu vực khe núi P, giáp gianh hai xã Nh và X, huyện TR, tỉnh Yên Bái.

Ngày 05/7/2007 khi đến lán trông coi gỗ phát hiện thấy một số tài sản bị mất như: Nồi nhôm, vải bạt, búa, gỗ....Do nghi ngờ anh Hoàng Văn K là người lấy trộm tài sản nên cả nhóm đã bàn bạc thống nhất đi tìm anh K để đánh và đòi lại tài sản bị mất.

Chiều ngày 09/7/2007 C và T mỗi người mang theo một thanh kiếm cùng Đ và B đi tìm anh K. Trên đường đi T gặp và rủ Nguyễn Văn G đi cùng. Khi đi đến thôn Đ, xã X gặp anh K cả bọn tra hỏi anh K có lấy trộm tài sản không? Khi anh K trả lời là không lấy C đã bắt K cởi áo và quỳ xuống đất rồi dùng kiếm tự chế đánh nhiều nhát vào lưng K. T, Đ, B và G dùng chân, tay và gậy đấm, đá anh K. Bị đánh đau K khai nhận đã cùng Hờ A D và anh L lấy trộm số tài sản trên. Sau đó cả bọn đưa anh K đến nhà anh L để tìm anh L nhưng anh L không có nhà nên cả bọn đưa Kvề lán ở và tiếp tục tra hỏi. Trên đường về lán, do trời mưa to, cả bọn đã đưa K vào lán bán hàng của chị Hoàng Thị H ở xã X để trú mưa. Tại đây mặc cho anh K van xin, C bắt anh K quỳ xuống, đặt tay xuống đất rồi dùng kiếm tự chế chặt đứt hai đốt ngón tay trỏ của bàn tay trái của anh K.

Sáng ngày 10/7/2007 T, C mỗi người mang theo một thanh kiếm B và Đ mỗi người cầm một đoạn gậy gỗ đi đến thôn H, xã NH để bắt anh Hờ A D. Thấy anh D đang ở nhà anh Hờ A Gi, C bắt anh D cởi áo dài, B lấy một sợi dây mây dài khoảng 1,5m đưa cho Đ trói tay anh D về phía trước rồi dẫn D đi về phía lán ở P. Trên đường đi cả bọn vừa đi vừa đánh và tra hỏi anh D về việc lấy trộm tài sản. Khi anh D không nhận lấy trộm tài sản của bọn chúng, B và Đ đã dùng tay, gậy đấm, đá, đánh anh D. C dùng kiếm đập ngang lưỡi kiếm nhiều nhát vào lưng anh D. T dùng kiếm chọc, cắt đứt ngang tai phải của anh D. Bị đánh đau anh D đã nhận lấy trộm hai đầu gỗ Pơmu mang đi bán. Sau đó cả bọn đưa D về lán và bắt D quỳ xuống đất, Đ đi nấu cơm, trong lúc cả bọn đang ngồi ăn cơm thì ông Hờ A Kh đến và bảo cởi trói cho D nhưng không ai cởi, ông Kh đã gọi anh Đặng Quang L đến cởi trói rồi đưa D về lán của ông nằm nghỉ. Sau khi ăn cơm xong cả bọn đến lán của ông Kh, thấy D nằm trên phản cả bọn tiến đến và khiêng anh D ra khỏi lán để đánh. C dùng chân đá vào bụng, ngực anh D làm anh D lảo đảo ngã vào bụi cây. T, C đến kéo D dậy, T cầm đoạn gỗ tiếp tục vụt vào bụng anh D làm anh D đi lảo đảo vào góc lán. Ông Kh can ngăn và chạy đến chỗ anh D thì thấy anh D đã chết. Khi thấy anh D đã chết C, T, B, Đ đã cùng nhau bỏ trốn.

Tại bản kết luận giám định số: 66/GĐPY ngày 19/7/2007 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận về thương tích của anh Đinh Văn K mất 12% sức khỏe do mất hai đốt ngón tay trỏ bên phải và 05 vết thương ở vùng lưng.

Tại bản kết luận giám định số 27/GĐPY ngày 13/7/2007 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận: Nguyên nhân Hờ A D chết là do trấn thương sọ não, chảy máu não.

Ngày 25/7/2007 Nguyễn Thanh B bị bắt tại xã Q, huyện Đ, tỉnh Thái Bình. Ngày 27/7/2007 Đồng Văn Đ bị bắt tại xã H, huyện L, tỉnh Bình Phước

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2008/HSST ngày 29/4/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái đã xử phạt Nguyễn Thanh B và Đồng Văn Đ mỗi bị cáo 23 năm tù về tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích”

Ngày 11/3/2012 Nguyễn Trung T đến Công an huyện V, tỉnh Yên Bái đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản án số: 31/2012/HSST ngày 06/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái đã xử phạt Nguyễn Trung T 17 năm tù về tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích”

Ngày 02/3/2017 Trần Văn C bị bắt tại xã B, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

Tại bản cáo trạng số: 19/KSĐT-TA ngày 29/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái truy tố Trần Văn C về tội “Giết người” và “Tội cố ý gây thương tích” theo điểm n khoản 1 Điều 93 và khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái giữ nguyên toàn bộ nội dung cáo trạng truy tố bị cáo và đề nghị HĐXX áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Trần Văn C từ 15 đến 16 năm tù về tội Giết người, áp dụng khoản 2 Điều 104, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt Trần Văn C từ 4 đến 5 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, áp dụng Điều 50 Bộ luật Hình sự về tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội từ 19 đến 21 năm tù.

Người bào chữa trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xử áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm b,p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt Trần Văn C từ 13 đến 14 năm tù về tội Giết người, áp dụng khoản 2 Điều 104, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Trần Văn C từ 3 đến 4 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, áp dụng Điều 50 Bộ luật Hình sự về tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội từ 16 đến 18 năm tù.

Bị cáo Trần Văn C thành khẩn khai báo hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố, bị cáo không tranh luận gì với ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị hại và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Khi phát hiện thấy một số tài sản ở lán trại bị mất , do nghi ngờ anh Đinh Văn K lấy trộm nên Cường đã cùng B, Đ, T đi bắt anh K về tra hỏi. C và đồng bọn đấm, đá anh K, bị cáo C là người đã dùng kiếm tự chế chặt đứt hai đốt ngón tay trỏ của bàn tay trái anh K. Hậu quả làm anh K bị tổn hại 12% sức khỏe.

Sáng ngày 10/7/2007 C mang theo một thanh kiếm tự chế cùng B, Đ và T đi tìm và bắt trói anh D đưa về lán để tra hỏi. Trên đường đi cả bọn vừa đi vừa đánh và tra hỏi anh D về việc lấy trộm tài sản, B và Đ đã dùng tay, gậy đấm, đá anh D. C dùng kiếm đập ngang lưỡi kiếm nhiều nhát vào lưng anh D. T dùng kiếm chọc, cắt đứt ngang tai phải của anh D. Khi phát hiện thấy D bị trói đánh thì ông Hờ A Kh cùng anh Đặng Quang L cởi trói rồi đưa D về lán của ông nằm nghỉ. Không dừng tại đó, C cùng đồng bọn tiếp tục sang lán của ông Kh để đánh anh D, C dùng chân đá vào bụng, ngực anh D làm anh D ngã vào bụi cây. Sau đó T và C tiếp tục kéo anh D dậy, T dùng đoạn gỗ tiếp tục vụt vào bụng anh D làm anh D lảo đảo ngã vào góc lán. Ông Kh can ngăn và chạy đến chỗ anh D thì thấy anh D đã chết. Khi thấy anh D đã chết C, T, B, Đ đã cùng nhau bỏ trốn.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị cáo T, Đ và B, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, bản kết luận giám định pháp y về tử thi, kết luận giám định về thương tích, vật chứng thu giữ của vụ án, bản kết luận điều tra, cáo trạng, nên có đủ cơ sở để kết luận Trần Văn C phạm tội “giết người” và tội “cố ý gây thương tích”, tội danh và hình phạt được quy định tại Điều 93 và Điều 104 Bộ luật hình sự.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy:

Hành vi dùng chân, tay, kiếm, gậy, đấm, đá đánh anh Đinh Văn K do bị cáo cùng đồng bọn thực hiện là nguy hiểm. Trong vụ án này bị cáo cùng đồng bọn đã dùng hung khí nguy hiểm như gậy, kiếm để thực hiện tội phạm, bị cáo là người giữ vai trò thực hành tích cực, bị cáo đã dùng kiếm tự chế chặt đứt hai đốt ngón tay của anh K gây cố tật nhẹ cho nạn nhân, hậu quả làm anh K bị tổn hại 12% sức khỏe. Hành vi của bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái truy tố theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự là đúng quy định.

Hành vi dùng chân, tay, kiếm, gậy, đấm, đá, đánh anh Hờ A D vào những vùng hiểm yếu trên cơ thể hậu quả làm anh D bị trấn thương sọ não, chảy máu não, tử vong tại chỗ của bị cáo cùng đồng bọn là đặc biệt nguy hiểm. Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành tích cực. Chỉ vì nghi ngờ anh D lấy trộm tài sản mà các bị cáo đã trói anh D và đánh đập dẫn đến hậu quả anh D tử vong tại chỗ. Hành vi của bị cáo và đồng bọn đã thực hiện thể hiện tính côn đồ, coi thường pháp luật, phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội Giết người theo điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự là có căn cứ cần được chấp nhận.

Xét tội phạm do bị cáo thực hiện là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, không chỉ gây tổn hại 12% sức khỏe đối với anh Đinh Văn K, tước đoạt trái phép tính mạng của anh Hờ A D mà còn gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, gây đau thương mất mát cho gia đình bị hại nên để cải tạo bị cáo trở thành người hữu ích cần phải có một hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định thì mới có tác dụng giáo dục riêng, răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi lượng hình, có xem xét đến nhân thân bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đã tác động gia đình bồi thường một phần cho gia đình bị hại (anh D). Do đó Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b,p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Do bị cáo phạm nhiều tội nên việc tổng hợp hình phạt đối với bị cáo được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Hiện nay anh Đinh Văn K không có mặt tại địa phương, tại phiên tòa người bị hại Đinh Văn K vắng mặt. Nên tách phần bồi thường dân sự để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác khi anh K có yêu cầu.

Việc bồi thường tiền mai táng phí, tiền tổn thất về tinh thần và tiền cấp dưỡng nuôi các con của anh D do ông Hờ Tráng L làm đại diện đã được giải quyết tại bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2008/HSST ngày 29/4/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái, bản án đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét giải quyết trong vụ án này.

Xác nhận đại diện gia đình bị cáo đã bồi thường cho ông Hờ Tráng L người đại diện gia đình bị hại Hờ A D số tiền 3.000.000 đồng.

Các bị án Nguyễn Thanh B, Đồng Văn Đ có quyền khởi kiện Trần Văn C để giải quyết phần bồi thường bằng một vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

Về xử lý vật chứng: Đã được giải quyết tại bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2008/HSST ngày 29/4/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái, bản án đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết nữa.

Bị cáo Trần Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn C 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người”, áp dụng khoản 2 Điều 104, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn C 04 (bốn) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng Điều 50 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 02/3/2017.

3. Về án phí: Bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

440
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2017/HSST ngày 06/11/2017 về tội giết người và cố ý gây thương tích

Số hiệu:35/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về