TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 35/2017/HSST NGÀY 01/08/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 01 tháng 8 năm 2017, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Đ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2017/HSST, ngày 28/6/2017 đối với bị cáo:
Lê L, sinh năm 1996 Nơi cư trú: Thôn X, xã Tr, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.
Nghề nghiệp: Nông; Trình độ học vấn: 9/12; Tiền án, tiền sự: không.
Con ông Lê C và bà Nguyễn Thị M; chưa có vợ.
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
-Người bị hại: Ông Phan L1, sinh năm 1953 (Đã chết) Trú tại: Thôn 10, xã ĐT, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.
-Đại diện cho người bị hại: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1980
Trú tại: Khu 5, thị trấn GR, huyện XL, tỉnh Đồng Nai- Theo giấy ủy quyền lập ngày 29/3/2017. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 05/3/2017 Lê L, sinh năm 1996, có giấy phép lái xe hạng A1. Điều khiển xe mô tô loại Exciter, hiệu Yamaha, biển số 93P1-673.11, có bật đèn chiếu sáng, lưu thông từ thị trấn Đức Tài về xã Tr. Khi đến thôn 1, xã Tân Hà Lê L điều khiển xe khoảng 50km/h (theo lời khai của Lê L), do thiếu quan sát, không giữ khoảng cách an toàn, nên xe của Lê L tông vào đuôi xe đạp do ông Phan L1, sinh 1953, điều khiển đi cùng chiều phía trước, gây ra tai nạn. Hậu quả làm ông Phan L1 bị thương nặng, được đưa đi cấp cứu, đến ngày 06/3/2017 thì ông Phan L1 chết.
Đoạn đường nơi xãy ra tai nạn là đường bê tông nhựa, mặt đường rộng 11m, có vạch sơn chia chiều đường, mặt đường phằng, hai bên lề cỏ và đất. Khám nghiệm theo hướng Đức Hạnh đi Tr, lề trái làm chuẩn, trụ điện 473DL.2/200 làm mốc. Có các dấu vết và phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông như sau:-Vết cày ký hiệu (1): Nằm trên đường ĐT 766, chiều dài 0,27m; đo từ đầu vết cày vào lề trái 9,4m; từ đuôi vết cày vào lề trái 9,46m; đo từ đuôi vết cày đến tâm trục bánh sau xe đạp (2) là 4,3m.
-Xe đạp ký hiệu (2): Nằm ngã ở lề đường phía bên phải, xe ngã trái, đầu xe hướng vào lề phải, đuôi xe hướng lề trái; đo từ tâm trục bánh trước vào lề trái 11,5m; đo từ tâm trục bánh sau vào lề trái 10,7m; đo từ tâm trục bánh sau xe đến đầu vết cày (3) là 7,9m; từ tâm bánh sau xe đạp đến tâm bánh sau xe mô tô 93P1- 673.11 là 32,2m.
-Vết cày đứt quảng ký hiệu (3): Nằm trên mặt đường ĐT 766, chiều dài 25,45m; đo từ đầu vết cày vào lề trái 8,3m; đo từ đuôi vết cày vào lề trái 6,9m; đuôi vết cày trùng với đầu tay lái bên phải của xe mô tô 93P1- 673.11.
-Xe mô tôi 93P1- 673.11 ký hiệu là (4): Ngã bên phải nằm trên đường ĐT 766; đầu xe hướng lề trái, đuôi xe hướng lề phải; đo từ tâm bánh sau xe vào lề trái 7,5m; đo từ tâm bánh trước tới trụ điện 473DL.2/200 là 12,85m.
Kết luận giám định pháp y về tử thi số 25/PY-PC54 ngày 21/3/2017 thể hiện:
-Dấu hiệu chính qua giám định: Chấn thương vết thương vùng thái dương chẩm trái, khuỷa tay trái, cánh tay phải. Nứt xương thái dương chẩm trái, xuất huyết não; gãy kín 1/3 ngoài xương đòn trái.
-Nguyên nhân chết: Nứt xương thái dương chẩm trái. Xuầt huyết não, chóng chấn thương không hồi phục do chấn thương sọ não.
Về dân sự: Gia đình Lê L đã bồi thường cho gia đình Phan L1 80.000.000 đồng. Gia đình Phan L1 không yêu cầu gì thêm, có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Lê L.
Vật chứng là các phương tiện liên quan trong vụ tai nạn giao thông đã được Cơ quan điều tra trả lại cho các chủ sở hữu và người quản lý hợp pháp, không ai có yêu cầu gì.
Tại Cáo trạng số 35/QĐ/KSĐT/VKS-HS ngày 27/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh truy tố Lê L ra trước Tòa án nhân dân huyện Đức Linh để xét xử về tội: Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, theo khoản 1 Điều 202 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, giữ nguyên Cáo trạng đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 202, điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 9 đến 12 tháng tù.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Đại diện cho người bị hại: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án nhẹ hơn so với mức án Viện kiểm sát đề nghị.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo, để bị cáo có điều kiện ở nhà lao động phụ giúp cho gia đình. Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo, những người tham gia tố tụng tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1]Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, Kiểm sát viên: Kể từ khi nhận được tin báo cho đến khi ban hành kết luận điều tra, Cơ quan điều tra, Điều tra viên ban hành các văn bản tố tụng đều đúng thẩm quyền, đúng thời hạn và đảm bảo về trình tự theo Bộ luật tó tụng hình sự; thực hiện các hoạt động điều tra đúng luật định. Đối với Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình giám sát các hoạt động ở giai đoạn điều tra thực hiện đúng thẩm quyền. Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên ban hành Cáo trạng và nhưng văn bản tố tụng khác đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục tố tụng.
[2] Hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã đủ căn cứ kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 5/3/2017 Lê L, sinh năm 1996 có giấy phép lái xe hạng A1, điều khiển xe biển số 93P1- 673.11, loại xe Exciter, hiệu Yamaha lưu thông trên đường ĐT 766 theo hướng từ Xã Đức Hạnh đi xã Tr, huyện Đ, khi đến khu vực thôn 1, xã Tân Hà, huyện Đ, do không quan sát phía trước nên xe của bị cáo Lê L tông vào đuôi xe đạp do ông Phan L1 điều khiển đi cùng chiều phía trước, bên phải đường gây ra vụ tai nạn giao thông. Hậu quả, làm cho ông L1 ngã xuống đường chấn thương sọ não, dẫn đến tử vong. Việc tham gia giao thông của bị cáo đã vi phạm vào khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ- Tức là không đảm bảo về tốc độ, giữ khoảng cách an toàn với xe liền trước; ngoài ra khi tham gia giao thông không quan sát về phía trước. Chính vì các lỗi này của bị cáo đã gây ra vụ tai nạn giao thông và làm cho ông Phan L1 chết.
Vì vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh truy tố bị cáo về tội: Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông, xâm phạm tính mạng của người khác, làm phức tạp thêm tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn huyện Đức Linh. Do đó, cần xử phạt để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm cho địa phương.
Xét về tính chất, mức độ và động cơ phạm tội của bị cáo thấy rằng: Bị cáo phạm tội với lỗi vô ý. Tuy nhiên chính hành vi không tuân thủ các quy tắc, vi phạm những điều cấm được quy định trong Luật giao thông đường bộ đã gây ra cái chết cho ông L1. Xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hơn nữa trong tình hình hiện nay tai nạn giao thông đã gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe của con người, gây thiệt hại lớn về tài sản cho xã hội. Do đó cần thiết phải có hình phạt nghiêm nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người biết tôn trọng luật giao thông, tôn trọng các quy tắc xã hội.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, sau khi gây ra hậu quả đã đến nhà nạn nhân lo lắng ma chay, đã bồi thường cho thân nhân, gia đình của người bị hại 80.000.000 đồng, đại diện cho người bị hại có đơn xin bãi nại, miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo, tại phiên tòa đại diện người bị hại cũng đề nghị giảm nhẹ cho bị cáo, nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Mặc dù phía nạn nhân có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nhưng xét thấy cần thiết phải có biện pháp giáo dục và răn đe, phòng ngừa cho xã hội, nên không chấp nhận yêu cầu này của đại diện người bị hại, mà căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là phù hợp. Bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, có nhân thân tốt và nơi cư trú ổn định, nếu để bị cáo cải tạo ngoài xã hội cũng không gây nguy hại cho xã hội, nên không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục bị cáo là được. Do phạm tội với lỗi vô ý, không cần thiết áp dụng hình phạt phụ đối với bị cáo.
[3] Vật chứng trong vụ án là những phương tiện liên quan trong vụ tai nạn giao thông, Cơ quan điều sau khi xem xét và trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp là đúng quy định, không còn phải xem trong bản án này. Riêng giấy phép lái xe số 740147013582 là của Lê L, do không áp dụng hình phạt phụ cấm nên trả lại cho bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi tai nạn giao thông xảy ra phía gia đình bị cáo và gia đình người bị hại đã thỏa thuận việc bồi thường. Xét thấy việc tự thỏa thuận bồi thường của các bên là tự nguyện và phù hợp quy định của pháp luật, phù hợp đạo đức xã hội; đồng thời đại diện người bị hại không yêu cầu gì thêm, nên không cần xem giải quyết.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Bởi các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Lê L phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Áp dụng khoản 1 Điều 202, điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự phạt: Lê L 12 (mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng, tính từ ngày tuyên án: Ngày 01/8/2017. Giao Lê L cho UBND xã Tr, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
2.Về vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; trả lại cho Lê L 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 7401 47013582, do Sở Giao thông vận tải tỉnh Bình Dương cấp ngày 25/6/2015.
3. Về án phí:
Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội; buộc: Bị cáo Lê L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện cho người bị hại có quyền kháng bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngay tuyên án (01/8/2017), để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Trường hợp Bản án thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
(Đã giải thích chế định về án treo cho bị cáo nghe tại phiên tòa).
Bản án 35/2017/HSST ngày 01/08/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 35/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về