Bản án 35/2017/HSPT ngày 29/06/2017 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 35/2017/HSPT NGÀY 29/06/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 41/2017/HSPT ngày 26/5/2017 đối với bị cáo Đào Xuân Tr và các bị cáo khác, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 22/2017/HSST ngày 18/4/2017 của Toà án nhân dân huyện TL, tỉnh Hà Nam.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Đào Xuân Tr, sinh năm 1984 tại Hà Nam. Nơi cư trú: Thôn Tân Lợi, xã Thanh Phong, huyện TL, tỉnh Hà Nam; CMTND số 168517109; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông Đào Xuân Th và bà Vũ Thị Th; vợ Nguyễn Thị L và có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 12/01/2017 đến ngày 20/01/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

2. Nguyễn Văn T, sinh năm 1991 tại Hà Nam Nơi cư trú: Thôn Tân Lợi, xã Thanh Phong, huyện TL, tỉnh Hà Nam; Thẻ căn cước công dân  số 0350910000631;  nghề  nghiệp:  Công  nhân;  trình  độ  văn  hoá: 9/12; con ông Nguyễn Văn T và bà Phạm Thị O; vợ Nguyễn Thị Như Q và cú 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 12/01/2017 đến ngày 20/01/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

3. Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1988 tại Hà Nam. Nơi cư trú: Thụn Hòa Ngãi, xã Thanh Hà, huyện TL, tỉnh Hà Nam; CMTND số 168404049; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Hữu A và bà Nguyễn Thị S; vợ Lê Ngọc D, chưa có con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 12/01/2017 đến ngày 25/01/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

Bị cáo có kháng cáo nhưng đã rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa phúc thẩm: Nguyễn Thành N, sinh năm 1997. Nơi cư trú: Thôn Ngái Trì, xã Liêm Tuyền, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (vắng mặt).

Ngoài ra cũn cú 18 (mười tám) bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Bùi Thế A, anh Trần Văn H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện TL, tỉnh Hà Nam, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12h20 ngày 12/01/2017, sau khi ăn cơm trưa tại Công ty Fabi Secret (thôn Hòa Ngãi, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) Nguyễn Hữu Q đi xuống phòng là của Công ty thì thấy Lại Xuân S, Nguyễn Xuân Tr, Đinh Văn H, Đào Văn H đang đứng trên tấm vải nỉ trải dưới nền nhà, trên tấm vải có 01 bát và 01 đĩa đều bằng inox, trên đĩa có 04 quân vị hình tròn có đường kính khoảng 1cm, được cắt từ vỏ bao thuốc lá Thăng Long. Thấy vậy, Nguyễn Hữu Q vào ngồi cầm bát đĩa xóc thử, đúng lúc này lần lượt có Trần Đức S, Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T và một số người khác đến. Do có đông người nên các đối tượng rủ nhau chơi xóc đĩa ăn tiền. Trần Đức S lấy bát đĩa từ Q rồi ngồi xuống tấm vải, xóc cái cho mọi người đánh bạc.

Quá trình đánh bạc các đối tượng quy định và thống nhất như sau: Người cầm cái cho bốn quân vị vào chiếc đĩa inox, úp chiếc bát lên và xóc đều. Có hai cửa “chẵn” và “lẻ” cho người chơi đặt tiền, cửa “chẵn” phía bên phải người xóc cái, cửa “lẻ” phía bên trái người xóc cái. Sau khi xóc cái, người chơi bắt đầu đặt tiền vào cửa chẵn, lẻ theo ý muốn của mình, mỗi ván người chơi đặt cửa thấp nhất là 10.000đ, không quy định ván cao nhất. Khi mở bát ra mà thấy có một quân vị màu vàng, ba quân màu trắng hoặc ngược lại thì là “lẻ”, nếu có hai quân vị màu trắng, hai quân vị màu vàng hoặc bốn quân vị cùng màu thì gọi là “chẵn”. Nếu người chơi đặt tiền đúng cửa mà các quân vị hiển thị trên đĩa thì thắng và được số tiền bằng số tiền mà mình đó đặt, nếu không sẽ thua số tiền đó đặt.

Khi các đối tượng đang đánh bạc gồm có: Trần Văn Đ, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn Th, Nguyễn Văn T, Hoàng Văn D, Trần Giang, Nguyễn Văn Tr1, Nguyễn Thành N, Vũ Văn S, Nguyễn Văn Tr2, Bùi Thế A, Trần Văn L, Trần Văn Th, Nguyễn Văn, Lại Đăng Q, Trần Văn H đến. Các đối tượng Trần Giang S, Nguyễn Văn H, Trần Văn Đ, Lại Đăng Q, Đào Xuân Tr, Hoàng Văn D, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Th, Nguyễn Văn Tr1, Nguyễn Văn Tr2, Nguyễn Thành N, Nguyễn Văn T và Vũ Văn S vào tham gia đánh bạc; còn Bùi Thế A, Trần Văn Th, Trần Văn H không tham gia mà đứng xem. Đến khoảng 12h45 cùng ngày, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị Tổ công tác của Công an huyện Thanh Liêm phối hợp cùng Công an xã Thanh Hà phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng, tài sản thu giữ gồm: Thu giữ tại nơi các đối tượng ngồi đánh bạc số tiền 12.720.000đ, 01 bát, 01 đĩa, 04 quân vị hình tròn, 01 tấm vải nỉ. Thu giữ trên người các đối tượng tổng số tiền 9.590.000đ và 21 điện thoại di động các loại.

Cơ quan Cảnh sát điều tra chứng minh tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc được xác định là 18.090.000đ. Những tài sản không liên quan đến hành vi đánh bạc Cơ quan CSĐT đó trả lại cho các chủ sở hữu hợp.

Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2017/HSST ngày 18/4/2017 của Toà án nhân dân huyện TL, tỉnh Hà Nam đã tuyên bố Nguyễn Thành N, Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 248; Điều 53; Điều 20; Điều 33 BLHS (đối với các bị cáo); điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS (đối với Tr, T, Q). Xử phạt Nguyễn Thành N, Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q mỗi bị cáo 06 (sáu) tháng tù (được trừ thời gian tạm giữ); thời hạn tù đều tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, án sơ thẩm cũn quyết định về tội danh, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, vật chứng, án phí đối với các bị cáo khác trong cùng vụ án và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong thời hạn luật định, bị cáo Nguyễn Thành N, Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q kháng cáo xin giảm hình phạt và hưởng án treoNgày26/6/2017, bị cáo Nguyễn Thành N có đơn xin rút toàn bộ nội dung  kháng cáo. Tại phiên toà, bị cáo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 238 của Bộ luật tố tụng hình sự; đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành N. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 248; điểm đ khoản 1 Điều 249 của Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q; sửa bản án hình sự sơ thẩm; xử phạt bị cáo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q mỗi bị cáo 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q nhất trí quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đó được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sỏt viờn, lời khai của cỏc bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Đối với nội dung rút kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành N cấp phúc thẩm thấy: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/4/2017 bị cáo Nguyễn Thành N có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt và hưởng án treo; ngày 26/6/2017 bị cáo Nguyễn Thành N có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo, đơn rút kháng cáo của bị cáo có xác nhận của chính quyền địa phương. Xét thấy, nội dung rút kháng cáo của bị cáo là tự nguyện, không trái pháp luật; vì vậy HĐXX phúc thẩm căn cứ Điều 238 của Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành N.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q chưa thành khẩn khai báo nhưng đến phiên toà phúc thẩm các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo không có kháng cáo, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Toà án cấp sơ thẩm đó áp dụng khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự, xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, tụ tập đông người làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây bức xúc trong nhân dân, đồng thời là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác nếu không được ngăn chặn kịp thời. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q cấp phúc thẩm thấy: Đây là vụ án có nhiều đối tượng cùng tham gia đánh bạc, không có sự chuẩn bị, phân công vai trò nên được xác định là đồng phạm giản đơn. Bị cáo Trần Đức Sơn là người cầm cái nên giữ vai trò chính, các bị cáo còn lại cùng tham gia đánh bạc nên giữ vai trò đồng phạm. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá mức độ phạm tội, vai trò, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quyết định xử phạt mỗi bị cáo 06 (sáu) tháng tù là phù hợp nên không có căn cứ giảm hình phạt đối với các bị cáo.

[4] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q cấp phúc thẩm thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ, là lao động chính; sau khi xét xử sơ thẩm đó nhận thức rõ hành vi phạm tội của bản thân nên đó nộp khoản tiền phạt bổ sung và tiền án phí hình sự theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Bị cáo Đào Xuân Tr có bố vợ Nguyễn Sỹ H, ông nội của vợ là Nguyễn Sỹ A được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì; bản thân bị cáo có thời gian tham gia quân đội. Bị cáo

Nguyễn Hữu Q gia đình thuộc diện hộ cận nghèo, bố đẻ là người có công với cách mạng, bị nhiễm chất độc màu da cam, mẹ đẻ bị tai biến, bị cáo có thời gian tham gia quân đội. Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới phát sinh tại cấp phúc thẩm nờn các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xét thấy, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, qúa trình tại ngoại chấp hành tốt nghĩa vụ công dân nên không nhất thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách giao cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục là đủ, phù hợp với quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự và Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, kháng cáo xin hưởng án treo của bị cỏo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q được cấp phúc thẩm chấp nhận.

[5] Án phí: Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận nên các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Ghi nhận việc bị cỏo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thành N mỗi bị cáo đã nộp 3.200.000đ tiền phạt bổ sung và tiền án phí; bị cáo Nguyễn Hữu Q đã nộp 200.000đ tiền án phí; số tiền các bị cáo đó nộp được đối trừ khi thi hành án.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ Điều 238 của Bộ luật tố tụng hình sự; Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành N; phần hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Thành N có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

[2] Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248; điểm đ khoản 1 Điều 249 của Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu Q; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 22/2017/HSST ngày18/4/2017 của Toà án nhân dân huyện TL, tỉnh Hà Nam.

Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 60 Bộ luật hình sự.

+ Xử phạt bị cáo Đào Xuân Tr 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”. Thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”. Thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Q 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”. Thời gian thử thỏch 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T cho UBND xã Thanh Phong, huyệnTL, tỉnh Hà Nam giám sỏt, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Nguyễn Hữu Q cho UBND xó Thanh Hà, huyện TL, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

[3] Án phí: Các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

+ Ghi nhận việc bị cáo Nguyễn Thành N, Đào Xuân Tr, Nguyễn Văn T mỗi bị cáo đó nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) theo biên lai các số 04106, 04110, 04160 ngày 18/4/2017 và 3.000.000đ (ba triệu đồng) theo biên lai các số 04135, 04136, 04137 ngày 14 và 15/6/2017. Bị cáo Nguyễn Hữu Q đó nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) theo biên lại số 04156 ngày 18/4/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TL, tỉnh Hà Nam; số tiền các bị cáo đó nộp được đối trừ khi thi hành án.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, khỏng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
  • Tên bản án:
    Bản án 35/2017/HSPT ngày 29/06/2017 về tội đánh bạc
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    35/2017/HSPT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    29/06/2017
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2017/HSPT ngày 29/06/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:35/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về