TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 345/2020/HS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 8 năm 2020 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 337/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 345/2020/QĐXXST-HS ngày 20/8/2020 đối với bị cáo:
Trần Văn P, sinh năm 1991 tại tỉnh N; thường trú : Xóm 11, xã M, huyện Y, tỉnh N; nghề nghiệp: Sơn nước; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn S, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1965; bị cáo có 02 anh chị em, lớn sinh năm 1984, nhỏ sinh năm 1988; có v Lê Thị Thu T, sinh năm 1991; có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Bản án số 147/2018/HSST ngày 28/11/2018, Tòa án nhân dân Q, thành phố H xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 21/01/2020; tiền sự: Không; nhân thân: Quyết định số 05/2009/HSST-QĐ ngày 06/8/2009, Tòa án nhân dân thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh B đình chỉ vụ án về tội trộm cắp tài sản do chưa đủ định lư ng; bản án 157/HSST ngày 13/9/2011, Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố H xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm tính từ ngày tuyên án; bản án 325/HSST ngày 18/12/2014, Toà án nhân dân Quận G xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 25/01/2016, đã đóng án phí; bị tạm giữ, tạm giam ngày 31/5/2020, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị hại: Bà Nguyễn Thị Kiều D, sinh năm 1989; thường trú: Ấp N, xã T, huyện C, tỉnh T, vắng mặt.
- Người chứng kiến: Anh Thái Hoàng P, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 31/5/2020, H (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) rủ Trần Văn P đi tìm xe mô tô chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài. Cả hai đi đến công viên nước D đ i bạn của H (không rõ nhân thân lai lịch). Khoảng 15 phút sau, bạn của H điều khiển xe đến và đưa cho P 01 cây đoản hình chữ T và 01 đoạn bẻ khóa từ. Sau đó, H điều khiển xe chở P, bạn của H điều khiển xe đi một mình. Khoảng 19 giờ cùng ngày, cả ba đi vào đường hẻm trước dãy phòng trọ số 555/7 tổ 16, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B, nhìn thấy phía trước có 01 xe mô tô biển số 84K1-309.11 của bà Nguyễn Thị Kiều D không người trông coi. H dừng xe cách vị trí xe 05m, Trần Văn P tiến đến vị trí xe và dùng đoản chữ T bẻ khóa thì đèn điện nguồn xe bật sang. P ngồi lên xe nổ máy bỏ chạy ra đường thì bà D phát hiện truy hô cùng người dân bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.
Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô biển số 84K1-309.11, nhãn hiệu Exciter 150 cm3, màu trắng đỏ, số khung: 0610JY681509, số máy: G3D4E709342; 01 thanh kim loại màu vàng đồng dài 4cm, đầu có nam châm.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 99/BB.ĐG ngày 10/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Dĩ An kết luận 01 xe mô tô biển số 84K1-309.11 có giá trị 28.000.000 đồng.
Tại cáo trạng số 371/CT – VKS – DA ngày 06 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B truy tố bị cáo Trần Văn P về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn P mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt là xe mô tô biển số 84K1- 309.11 nhãn hiệu Exciter 150 cm3, màu trắng đỏ, số khung: 0610JY681509, số máy: G3D4E709342 có trị giá 28.000.000 đồng, đã thu hồi trả lại cho bị hại. Bị hại bà Nguyễn Thị Kiều D không yêu cầu bồi thường gì khác nên trách nhiệm dân sự không đề nghị xem xét.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 thanh kim loại màu vàng đồng dài 4cm, đầu có nam châm.
Đối với H và bạn của H chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra Công an thành phố D điều tra xác minh xử lý sau.
Tại đơn xin xét xử vắng mặt, bị cáo Trần Văn P xin Hội đồng xét xử giảm nh hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đ ng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 31/5/2020, tại dãy trọ số 555/7 tổ 16, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B, Trần Văn P dùng đoản hình chữ T bẻ khóa xe mô tô biển số 84K1- 309.11 nhãn hiệu Exciter 150 cm3, màu trắng đỏ, số khung: 0610JY681509, số máy: G3D4E709342 có trị giá 28.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị Kiều D rồi ngồi lên xe nổ máy bỏ chạy thì bị bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 371/CT – VKS – DA ngày 06 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đ ng người, đ ng tội và đ ng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nh trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bản án số 147/2018/HSST ngày 28/11/2018, Tòa án nhân dân Quận 9, thành phố H xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/01/2020, bị cáo chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý là tính tiết tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản bị chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho bị hại là những tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị Tòa án xét xử nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà tiếp tục phạm tội, thể hiện sự chấp hành pháp luật của bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt là 01 xe mô tô biển số 84K1-309.11 nhãn hiệu Exciter 150 cm3, màu trắng đỏ, số khung: 0610JY681509, số máy: G3D4E709342 có trị giá 28.000.000 đồng đã thu hồi trả lại cho bị hại bà Nguyễn Thị Kiều D. Bà Nguyễn Thị Kiều D không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[9] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử đã quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nên không áp dụng khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự để xử phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
[10] Xét 01 thanh kim loại màu vàng đồng dài 4cm, đầu có nam châm bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.
[11] Đối với H và bạn của H, chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phó Dĩ An tiếp tục điều tra, xử lý sau.
[12] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.
[13] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn P phạm tội trộm cắp tài sản.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Trần Văn P 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/5/2020.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn thanh kim loại màu vàng đồng dài 4cm, đầu có gắn nam châm.
(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/8/2020).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Trần Văn P phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Bị cáo, bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 345/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 345/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về