Bản án 344/2021/HSPT ngày 13/05/2021 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 344/2021/HSPT NGÀY 13/05/2021 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 13 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 189/2021/TLPT- HS ngày 19 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Kim H do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Kim H đối với bản án hình sự sơ thẩm số 252/2020/HSST ngày 16/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Kim H, sinh năm 1991.

ĐKHKTT: Xóm G, xã M, huyện C, thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Tiểu khu X, thị trấn L, huyện L, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt N2; con ông Nguyễn Kim C và bà Nguyễn Thị N; có vợ Hoàng Thị D và 02 con (con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2020); tiền án, tiền sự:

Không; nhân thân: Không;

Danh chỉ bản số 000000546 lập ngày 03/9/2020 tại Công an quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Bị cáo đầu thú và bị bắt, tạm giữ từ ngày 02/9/2020 đến ngày 12/9/2020 thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn N1, sinh năm 1986 và Nguyễn Duy K, sinh năm 1986 đều trú tại xóm V Thôn H, xã Đ, huyện M, thành phố Hà Nội là bạn quen biết. Do không có tiền ăn tiêu, N1 và K rủ nhau đi tìm xem ai sơ hở thì trộm cắp. Sau khi trộm cắp được xe máy, N1 và K mang bán cho Nguyễn Kim H, sinh năm 1991, trú tại xóm G, xã M, huyện C, thành phố Hà Nội là chủ cửa hàng sửa chữa xe máy Kim Hùng tại thị trấn L, huyện L, tỉnh Hòa Bình và Nguyễn Phương N2, sinh năm 2002, trú tại xã M, huyện C, thành phố Hà Nội là nhân viên của cửa hàng đi cùng. Sau khi mua xe, để tránh bị phát hiện, Hùng dùng máy mài tẩy xóa số khung, số máy, dùng đèn khò thổi biển kiểm soát biến dạng rồi bán sắt vụn, đồng thời tháo dời phụ tùng của chiếc xe để thay cho khách đến sửa xe tại cửa hàng của Hùng. Trong khoảng thời gian từ ngày 25/6/2020 đến ngày 25/8/2020, N1 và K đã 03 lần trộm cắp tài sản, bán lại cho Hùng, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khong 17 giờ 30 phút ngày 25/6/2020, N1 điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream, sơn màu nâu, biển kiểm soát 34B1- 368.07 phía sau chở K đi đến khu vực khu đô thị Văn Khê thì phát hiện thấy trước cửa quán bia Alex, tòa nhà CT5C, khu đô thị Văn Khê, phường La Khê, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội có dựng 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu xanh, biển kiểm soát 90B2-060.62, số khung 630825, số máy 3430946 của anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1999, trú tại: khu đô thị A, phường L, quận H, thành phố Hà Nội, xe khóa cổ, không khóa càng, không có người trông giữ (xe đứng tên anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1981; địa chỉ: tổ dân phố N, thị trấn Th, huyện T, tỉnh Hà Nam cho anh T là cháu sử dụng). N1 đứng ngoài cảnh giới, K dùng vam phá khóa mang sẵn từ trước, mở khóa điện chiếc xe máy của anh T, K điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 90B2- 060.62 của anh T cùng N1 điều khiển chiếc xe máy của N1 đi về khu công nghiệp L, thuộc huyện L, tỉnh Hòa Bình. Buổi trưa cùng ngày, N1 mang bán chiếc xe đã lấy của anh T cho Nguyễn Kim H và Nguyễn Phương N2 đi cùng lấy số tiền 3.000.000 đồng. Ngay sau khi mua được chiếc xe máy trên, Hùng dùng máy mài tẩy xóa số khung, số máy, dùng đèn khò thổi biển kiểm soát biến dạng rồi bán sắt vụn và tháo dời phụ tùng của chiếc xe để thay cho khách đến sửa xe tại cửa hàng là những người không quen biết.

Ngày 26/6/2020, anh Nguyễn Đức T đã có đơn trình báo đến Công an phường La Khê, quận Hà Đông trình báo bị mất tài sản là 01(một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn xanh, BKS: 90B2- 06062, số khung 630825, số máy 3430946, đã qua sử dụng.

Lần thứ hai: Khong 10 giờ 00 phút ngày 25/8/2020, N1 điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Dream, sơn màu nâu, BKS 34B1- 368.07 phía sau chở K đi đến khu vực khu đô thị Văn Khê thì phát hiện thấy trước cửa tòa nhà CT1, khu đô thị Văn Khê, phường La Khê, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội có dựng 01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS: 29Y3- 428.62, số khung 280105, số máy 7280156 của anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1999, trú tại: xã C, huyện T, thành phố Hà Nội, xe có khóa cổ nhưng không khóa càng, không có người trông giữ. N1 đứng ngoài cảnh giới, K dùng vam phá khóa mang sẵn từ trước, mở khóa điện chiếc xe của anh Tuấn A, K điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 29Y3- 428.62 của anh Tuấn A và cùng N1 điều khiển chiếc xe máy của N1 đi về khu công nghiệp L, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Buổi trưa cùng ngày, N1 mang chiếc xe của anh Tuấn A bán cho Nguyễn Kim H lấy số tiền 4.000.000 đồng. Ngay sau khi mua được chiếc xe máy trên, Hùng dùng máy mài tẩy xóa số khung, số máy, dùng đèn khò thổi biển kiểm soát biến dạng rồi bán sắt vụn và tháo dời phụ tùng của chiếc xe để thay cho khách đến sửa xe tại cửa hàng là những người không biết.

Ngày 25/8/2020, anh Nguyễn Tuấn A đã có đơn trình báo đến Công an phường La Khê, quận Hà Đông trình báo bị mất tài sản là 01(một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS 29Y3- 428.62, số khung 280105, số máy 7280156, đã qua sử dụng.

Lần thứ ba: Khong 13 giờ 00 phút ngày 25/8/2020, N1 điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Dream, BKS: 34B1-368.07 phía sau chở K đi đến khu đô thị Văn Khê, phường La Khê, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thì phát hiện thấy trước cửa hàng Vinmart, tòa nhà CT2 có dựng 01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu trắng, BKS 89E1- 657.19, số khung 378435, số máy 1246258 của chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1988, trú tại: Chung cư M, phường M, quận H, thành phố Hà Nội, xe có khóa cổ, không khóa càng, không có người trông giữ (chiếc xe do chị L mượn của bạn là chị Phạm Thị Thanh V, sinh năm 1997, trú tại: P, V, Hưng Yên). N1 đứng ngoài cảnh giới, K dùng vam phá khóa mang sẵn từ trước, mở khóa điện chiếc xe của chị L. Sau khi mở được khóa điện, K điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS 89E1- 657.19 của chị L, còn N1 điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream, BKS: 34B1- 368.07 cùng đi về khu công nghiệp L, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Đến trưa ngày 26/8/2020, N1 mang chiếc xe lấy trộm được của chị L bán cho Nguyễn Kim H và Nguyễn Phương N2 đi cùng lấy số tiền 3.000.000 đồng. Ngay sau khi mua được chiếc xe máy trên, Hùng dùng máy mài tẩy xóa số khung, số máy, dùng đèn khò thổi biển kiểm soát biến dạng rồi bán sắt vụn cho người không quen biết. Hùng sử dụng phụ tùng gồm đầu bò, quả hơi lắp vào chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream, màu đỏ, biển kiểm soát 29X3- 628 sử dụng làm phương tiện đi lại.

Ngày 25/8/2020, chị Nguyễn Thị L đã có đơn trình báo đến Công an phường La Khê, quận Hà Đông trình báo bị mất tài sản là 01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS: 89E1- 657.19, số khung: 378435, số máy: 1246258, đã qua sử dụng.

Ngày 02/9/2020, Bùi Văn N1, Nguyễn Duy K và Nguyễn Kim H lần lượt đến Công an quận Hà Đông đầu thú khai nhận về hành vi trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như đã nêu trên.

* Vật chứng của vụ án đã thu giữ:

Thu giữ của Bùi Văn N1, gồm:

01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Viettel, màu đen, số Imei 1: 356781098639441, số Imei 2: 356781098639458, đã qua sử dụng, là phương tiện N1 sử dụng để liên lạc bán xe máy cho Hùng.

01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream, sơn màu nâu, BKS 34B2- 368.07, số khung 013326, số máy 1313460, đã qua sử dụng, là phương tiện N1 và K sử dụng để trộm cắp tài sản;

Thu giữ của Nguyễn Duy K: 01 (một) tay công bằng kim loại dài khoảng 15cm; 03 (ba) vam kim loại, một đầu có hình trụ, một đầu được mài dẹt, là công cụ N1 và K sử dụng để trộm cắp tài sản;

Thu giữ của Nguyễn Kim H, gồm:

01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen, số Imei 1: 355767047349704, số Imei 2: 355767047349712, đã qua sử dụng, là phương tiện Hùng sử dụng để liên lạc với N1;

01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream, sơn màu đỏ, BKS 29X3- 628, số khung 1261506, số máy không xác định, đã qua sử dụng;

01(một) ốp sườn xe máy bằng nhựa màu trắng có chữ Wave alpha, 01 (một) cụm đèn chiếu sáng phía trước xe máy và 02 (một) cụm đèn xi nhan là các bộ phận của chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS 89E1- 657.19, số khung: 378435, số máy: 1246258 do N1 và K chiếm đoạt của chị Phạm Thị Thanh Vân bán cho Nguyễn Kim H.

* Vật chứng của vụ án chưa thu giữ được, gồm:

01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn xanh, BKS: 90B2- 06062, số khung 630825, số máy 3430946, đã qua sử dụng, là tài sản N1 và K đã chiếm đoạt của anh Nguyễn Đức T.

01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS 29Y3- 428.62, số khung 280105, số máy 7280156, đã qua sử dụng là tài sản N1 và K đã chiếm đoạt của anh Nguyễn Tuấn A.

01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS: 89E1- 657.19, số khung: 378435, số máy: 1246258, đã qua sử dụng, là tài sản N1 và K đã chiếm đoạt của chị Phạm Thị Thanh Vân (chị Vân cho chị Nguyễn Thị L mượn làm phương tiện đi lại).

Tại Kết luận định giá tài sản số 250 ngày 03/9/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Hà Đông:

01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn xanh, BKS 90B2- 06062, số khung 630825, số máy 3430946, đã qua sử dụng, trị giá 9.500.000 đồng (Chín triệu năm trăm nghìn đồng)”.

01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS 29Y3- 428.62, số khung: 280105, số máy: 7280156, đã qua sử dụng, trị giá 13.500.000 đồng (Mười ba triệu năm trăm nghìn đồng).

01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS 89E1- 657.19, số khung: 378435, số máy: 1246258, trị giá 16.500.000 đồng (Mười sáu triệu năm trăm nghìn đồng)”.

Tại Bản cáo trạng số 260/CT-VKS-HĐ ngày 17/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Kim H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra cáo trạng còn truy tố 02 bị cáo khác theo quy định của pháp luật.

Bản án hình sự sơ thẩm số 252/2020/HSST ngày 16/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kim H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Kim H 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 03/9/2020 đến ngày 12/9/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên tội danh, điều luật và mức hình phạt đối với 02 bị cáo khác; tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 18/12/2020, bị cáo Nguyễn Kim H kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Kim H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội nhận định:

Về hình thức kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Kim H trong thời hạn luật định, đúng về chủ thể, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nội dung kháng cáo:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Nguyễn Kim H tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Kim H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; mức hình phạt 15 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp.

Quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo đã cung cấp thông tin quan trọng giúp cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, tỉnh Hòa Bình bắt đối tượng truy nã. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Kim H, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo từ 02 – 03 tháng tù. Cụ thể:

Áp dụng khoản 1 Điều 323; các điểm s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Kim H từ 12 – 13 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Kim H trong thời hạn luật định, đúng về chủ thể, được Hội đồng xét xử chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]Căn cứ vào lời khai của bị cáo Nguyễn Kim H, vật chứng thu được, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận:

Trong các ngày 25/6/2020 và ngày 25/8/2020, mặc dù biết các xe máy do Bùi Văn N1 và Nguyễn Duy K trộm cắp được mà có nhưng bị cáo Nguyễn Kim H vẫn đồng ý mua lại 03 xe máy. Sau khi mua xe của N1 và K, bị cáo Hùng đã mài tẩy xóa số khung, số máy, dùng đèn khò thổi biển kiểm soát biến dạng rồi bán sắt vụn, tháo dời phụ tùng để bán và sử dụng. Tổng trị giá tài sản mà bị cáo Nguyễn Kim H tiêu thụ là 39.500.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Kim H đã cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Kim H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Kim H, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì hám lợi vẫn cố ý thực hiện. Do đó, cần phải xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của pháp luật để răn đe và phòng ngừa chung.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo Nguyễn Kim H 03 lần tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có để áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52; đồng thời xem xét bị cáo sau khi phạm tội đã đến Cơ quan điều tra để đầu thú, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Kim H đã cung cấp thông tin quan trọng giúp cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, tỉnh Hòa Bình bắt đối tượng truy nã (Công văn số 28 ngày 04/01/2021 của Công an huyện L, tỉnh Hòa Bình); bị cáo giao nộp tài liệu thể hiện gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình (Bút lục 400). Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm u khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Kim H và chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[4]Theo Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú (Bút lục 226) thể hiện, bị cáo Nguyễn Kim H bị bắt, tạm giữ từ ngày 02/9/2020, tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Kim H 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 03/9/2020 đến ngày 12/9/2020 là chưa chính xác, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Kim H được trừ thời gian đã bị bắt, tạm giữ vào hình phạt tù, cứ mỗi ngày bị bắt, tạm giữ được tính trừ một ngày tù.

[5]Hội đồng xét xử sửa quyết định của bản án sơ thẩm nên bị cáo Nguyễn Kim H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[6]Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự:

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Kim H và sửa Quyết định của bản án sơ thẩm:

Áp dụng khoản 1 Điều 323; các điểm s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Kim H 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị bắt, tạm giữ từ ngày 02/9/2020 đến ngày 12/9/2020.

2. Về án phí: áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Kim H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 13/5/2021. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 344/2021/HSPT ngày 13/05/2021 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:344/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về