Bản án 344/2020/HS-ST ngày 29/08/2020 về tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 344/2020/HS-ST NGÀY 29/08/2020 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 29 tháng 8 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 316/2020/HSST ngày 28 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 341/2020/QĐXXST-HS ngày 17/8/2020 đối với bị cáo:

Phan Thị Lệ T, sinh ngày 20/9/1991 tại tỉnh Quảng Bình; thường trú: Thôn S, xã L huyện T, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; con ông Phan Văn H, sinh năm 1955 và con bà Trần Thị D, sinh năm 1969; bị cáo có chồng tên Nguyễn Văn H, sinh năm 1985 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2008; tiền sự, tiền án: Không có.

Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 18/4/2020, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án 1. Chị Trần Thị D, sinh năm 1994; thường trú: Thôn 2 xã T huyện T, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

2. Anh Trần Duy T1, sinh năm 1994; địa chỉ: 1/7A đường Lý Thường Kiệt khu phố T, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt 3. Anh Lê Võ Quốc V, sinh năm 1994; thường trú: 519/1A khu phố A, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Minh L, sinh năm 1991; thường trú: Thôn N xã G, huyện T, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

Người làm chứng: Chị Phạm Thị T2, sinh năm 1993, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Phan Thị Lệ T cùng với Trần Thị D, Đào Thị H cùng thuê trọ tại phòng 204 khách sạn Ngọc Lan tại địa chỉ đường GS3, khu phố Tây A, phường Đông Hòa, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương từ tháng 2 năm 2020 để bán dâm.

Bị cáo T sử dụng điện thoại Appo Iphone 7 Plus màu vàng đồng, sim số 033.663.3901 lập tài khoản zalo tên “ Út Nhỏ” liên lạc với tài khoản zalo “Long Gia” (không rõ lai lịch) điều hành trang web “ Kỹ nữ” sau này đổi tên thành “Gai to” thỏa thuận đăng ảnh khỏa thân của T để bán dâm, mỗi tháng T chuyển cho “Long Gia” 3.000.000 đồng. Sau khi truy cập vào trang web trên, khách có nhu cầu mua dâm sẽ trực tiếp gọi điện cho T thỏa thuận giá cả hẹn địa điểm tại khách sạn Ngọc Lan để mua bán dâm. Đầu tháng 4 năm 2020 có tài khoản zalo “A Lử” kết bạn qua zalo với T để thỏa thuận với T sẽ giới thiệu khách cho T bán dâm với giá 400.000 đồng một lượt, sau đó T sẽ giao cho “A Lử” 200.000 đồng tiền môi giới, khi nào T gom đủ số tiền 3.000.000 đồng sẽ chuyển khoản qua số tài khoản 0541000327964 ngân hàng Vietcombank. Sau đó T nói với H và D sẽ luân phiên đi bán dâm cho khách khi “A Lử” giới thiệu, sau khi bán dâm xong, D và H đưa tiền cho T để T chuyển khoản cho A Lử. Khoảng 14 giờ ngày 18/4/2020 T đang bán dâm cho một người không rõ lai lịch, T nhận được tin nhắn từ zalo “A Lử” với nội dung “ 201” (có nghĩa là có khách đang đợi tại phòng 201). T sử dụng tài khoản facebook “Nhỏ Xinh” nhắn qua tài khoản facebook “Ngọc Duyền” của D với nội dung “em đi khách zalo của chị 201”. D nhắn tin lại cho T “khách không đồng ý” sau đó T đi đến phòng 201 nhưng không gặp, T đi về phòng 204 thì nhận được tin nhắn của “ A Lử” nội dung “Em 203” T nói với D “đến phòng 203 khách zalo”. Khi D đến phòng 203 gặp anh Trần Duy T1 là khách mua dâm, D nhận số tiền 400.000 đồng, sau đó cùng anh T thực hiện việc mua bán dâm được khoảng 5 phút thì bị Đội cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành phố Dĩ An kiểm tra hành chính lập biên bản và tiến hành bắt giữ khẩn cấp bị cáo T.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 7 plus màu vàng đồng, sim số 033.663.3901; 01 bao cao su đã qua sử dụng:

400.000 đồng.

Đối với số tài khoản 0541000327964 ngân hàng Vietcombank qua xác minh là của Đinh Thị H thường trú thôn Bản Lọt, xã Bản Cầm, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Chị H không có mặt tại địa phương nên không tiến hành làm việc được.

Đối với tài khoản zalo “A Lử” đơn vị sở hữu ứng dụng Zalo là công ty cổ phần VNG cung cấp kết quả xác minh: do thông tin không đầy đủ nên bộ phận kỹ thuật VNG không lưu thông tin theo yêu cầu xác minh về thông tin cá nhân, số điện thoại dùng để đăng ký zalo “ A Lử” và dữ liệu tin nhắn giữa tài khoản zalo “A Lử” với tài khoản zalo “Út Nhỏ”.

Đối với số điện thoại qua xác minh chủ thuê bao là chị Phạm Thị B- sinh năm 1976 thường trú thôn T, xã T huyện Y, tỉnh Nam Định, chị B là giao dịch viên tại trung tâm bán hàng VNPT chi nhánh huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định từ năm 2006 cho đến nay nên các sim vinaphone ban đầu nhập về trung tâm đều do chị B đứng tên trên sim, khi khách hàng mua sim có nhu cầu đứng tên trên sim thì chị B làm thủ tục sang tên, nếu không có nhu cầu thì chị B vẫn đứng tên trên sim. Đối với sim số 094.626.2041 chị B không nhớ, không ghi chép, lưu trữ về thông tin người đã mua số sim này, chị B cũng không quen biết với Phan Thị Lệ T và không liên quan đến hoạt động mua bán dâm.

Đối với “Long Gia”, “ A Lử”, người sử dụng số thuê bao 0946.262.041 và Lý Thị H hiện chưa rõ nhân thân lai lịch và chưa làm việc. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Dĩ An tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với Trần Duy T1 đã có hành vi mua dâm nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã ra Quyết định xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng theo quy định tại khoản 01 Điều 22 Nghị định 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự.

Đối với hành vi bán dâm của Trần Thị D Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã ra Quyết định xử phạt hành chính số tiền 200.000 đồng theo quy định tại khoản 01 Điều 23 Nghị định 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự.

Đối với Đoàn Thị Ngọc L là chủ cơ sở kinh doanh khách sạn Ngọc Lan đã để cho Trần Duy T1 thuê phòng để thực hiện hành vi mua bán dâm nên bị Ủy ban nhân dân Thành phố Dĩ An ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 30.000.000 đồng.

Cáo trạng số 349/CT – VKS ngày 28 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phan Thị Lệ T phạm tội “Môi giới mại dâm” theo quy định khoản 1 Điều 328 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T từ 9 đến 12 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su, sim số 033.663.3901. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 400.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 7 plus màu vàng đồng.

Bị cáo T không bào chữa, tranh luận cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo T nói lời sau cùng. Biết việc mình làm là vi phạm pháp luật,xin được giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất do hiện tại bị cáo đang nuôi con còn nhỏ, bị cáo có cha, mẹ đang bị bệnh có hoàn cảnh khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ xác định bị cáo Phan Thị Lệ T phạm tội: Lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án Trần Thị D, Trần Duy T1, lời khai bị cáo T thể hiện: Vào lúc 14 giờ 30 ngày 18/4/2020 tại khách sạn Ngọc Lan địa chỉ đường GS3 khu phố Tây A, phường Đông Hòa, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Bị cáo Phan Thị Lệ T làm trung gian để Trần Thị D bán dâm cho anh Trần Duy T1. Hành vi trên của bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm” được quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 349/CT – VKS ngày 27/7/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa thể hiện thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có cha ruột được tặng thưởng huân chương chiến công hạng ba và có hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc diện cận nghèo. Tình tiết giảm nhẹ trên được quy định điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án, tiền sự.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Tội phạm bị cáo T thực hiện là ít nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 03 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến đạo đức, thuần phong mỹ tục, đời sống văn hóa, trật tự trị an xã hội nói chung mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương nói riêng. Hành vi trên còn là nguyên nhân gián tiếp lây truyền các căn bệnh truyền nhiễm, ảnh hưởng đến giống nòi. Do vậy, cần xử phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để bị cáo tự cải tạo rèn luyện sau này không vi phạm nữa, cũng như việc răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhất thời phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với bị cáo cũng có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ 400.000 đồng, điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 7 Plus liên quan đến việc phạm tội, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Đối với 01 bao cao su đã qua sử dụng, sim điện thoại số 033.663.3901 cần tịch thu tiêu hủy [4] Đối với Trần Thị D, Trần Duy T1 là người bán, mua dâm, chị Đoàn Thị Ngọc L chủ khách sạn Ngọc Lan đã để cho D, T1 bán dâm. Công an Thành phố Dĩ An và Ủy ban nhân dân Thành phố Dĩ An xử phạt hành chính là phù hợp.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.Riêng mức hình phạt đối với bị cáo T có phần nghiêm khắc, do vậy Hội đồng xét xử xử phạt mức hình phạt bị cáo T thấp hơn so mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo T phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phan Thị Lệ T phạm tội “Môi giới mại dâm”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 328, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phan Thị Lệ T 04 (bốn) tháng 11 (mười một) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 18/4/2020, bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ, bắt tạm giam từ ngày 18/4/2020 đến ngày 29/8/2020, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.

Căn cứ khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên bố trả tự do cho bị cáo Phan Thị Lệ T ngay tại phiên tòa, nếu bị cáo T không bị bắt tạm giam về một tội phạm nào khác.

2. Các biện pháp tư pháp:

Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 7 Plus màu vàng đồng.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bao cao su đã qua sử dụng; sim số 033.663.3901 Theo biên lai thu tiền số 01629, biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/7/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.

Bị cáo Phan Thị Lệ T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 344/2020/HS-ST ngày 29/08/2020 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:344/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về