TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN - TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 344/2020/HS-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 334/2020/TLST- HS ngày 12/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 383/2020/QĐXXST-HS ngày 26/11/2020 đối với bị cáo:
Đặng Văn M (tên gọi khác Phong), sinh năm 1995 tại tỉnh Sóc Trăng. Nơi cư trú:
Ấp A, xã Vĩnh T, huyện Thạnh T, tỉnh S; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Quốc Việt, sinh năm 1953 và bà Lê Thị Nữa, sinh năm 1955; bị cáo có 01 con sinh năm 2018; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17 tháng 8 năm 2020.
Nhân thân: Tại bản án số 388/2016/HSST ngày 29/12/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An) xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/3/2018.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Đặng Văn T, sinh năm 1997; nơi cư trú: Ấp Phú X, xã Phú Đ, huyện Tam N, tỉnh Đồng T (vắng mặt).
- Người làm chứng:
+ Bà Tô Mỹ T, sinh năm 2000 (vắng mặt).
+ Ông Lâm Thành Đ, sinh năm 1977 (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 04 giờ 40 phút ngày 17/8/2020 công an phường B, thành phố T, tỉnh B tuần tra tại địa chỉ nhà trọ số 16B/4, khu phố Đ, phường B, thành phố T, tỉnh B thì phát hiện Đặng Văn M sinh năm 1995 tại tỉnh Sóc Trăng, nơi cư trú tại ấp 17, xã V, huyện T, tỉnh S đang đứng bên trong dãy trọ có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra Đặng Văn M. Qua kiểm tra trên người Đặng Văn M phát hiện bên trong túi quần của M đang mặc có 01 điện thoại di động hiệu Sam sung A8 màu xám và 01 giấy chứng minh nhân dân tên Tô Mỹ Trang. Do Đặng Văn M không mở được mật khẩu điện thoại nên lực lượng công an phường Bình Hòa đã đưa Đặng Văn M về trụ sở công an phường Bình Hòa làm việc. Tại đây M khai nhận, do không có tiền tiêu xài nên khoảng 01 giờ 30 phút ngày 17/8/2020 thì đối tượng tên Bình (chưa rõ nhân thân lai lịch) đến nhà trọ của Đặng Văn M tại địa chỉ A, khu phố Đ, phường L, thành phố T, tỉnh B để rủ rê Đặng Văn M tìm tài sản lấy trộm. Đối tượng Bình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter (không rõ biển số) chở Đặng Văn M đến nhà trọ số 29A/8, khu phố Đ, phường L, thành phố T, tỉnh B để tìm tài sản để lấy trộm. Lúc này Bình dừng xe bên ngoài cảnh giới còn M đi vào trong dãy trọ phát hiện phòng số 4 không khóa cửa, bên trong phòng có 02 người đang nằm ngủ là vợ chồng ông Đặng Văn T và bà Tô Mỹ T. M phát hiện trên tủ nhựa trong phòng có để 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung A8 đang cắm sạc pin và 01 cái bóp da của ông Đặng Văn T nên đã lén lút vào phòng chiếm đoạt 01 điện thoại và 01 bóp da của ông Tài rồi nhanh chóng tẩu thoát cùng Bình. Khi đi đến đoạn đường Bình Hòa 20, khu phố Đ, phường B thì dừng xe kiểm tra bên trong bóp có 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Tô Mỹ T ngoài ra không có tài sản nào khác nên Đặng Văn M cất giấu điện Samsung A8 màu xám và 01 chứng minh nhân dân mang tên bà Trang vào túi quần còn chiếc bóp da thì M đã vứt bỏ dọc đường. Sau đó các đối tượng tiếp tục đi đến dãy nhà trọ số 16B/4 khu phố Đ, phường B, thành phố T, tỉnh B để kiếm tài sản để trộm thì lực lượng công an phường B bắt giữ, còn đối tượng Bình thì nhanh chóng tẩu thoát.
Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A8 màu xám và 01 chứng minh nhân dân mang tên bà Tô Mỹ T.
Theo biên bản và kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng Hình sự thành phố Thuận An ngày 20/8/2020 kết luận: Samsung A8 màu xám và 01 bóp da cá sấu màu xám trị giá 2.850.000 đồng.
Bản Cáo trạng số 347/CT-VKS-TA ngày 12/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Đặng Văn M về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An trình bày lời luận tội trong đó có nội dung giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả từ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
Xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung A8 màu xám của ông Đặng Văn T và 01 chứng minh nhân dân tên Tô Mỹ T quá trình điều tra đã trả cho ông Tài và bà Trang. Đối với 01 bóp da của ông Đặng Văn T không thu hồi được và ông Tài không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Đối với đối tượng tên B có liên quan đến vụ án, quá trình điều tra chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên khi nào làm rõ sẽ bị xử lý sau.
Trong quá trình tố tụng bị hại không có ý kiến đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát, không có yêu cầu dân sự gì trong vụ án.
Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi như Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là đúng quy định của pháp luật.
[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 17/8/2020 bị cáo cùng với đối tượng tên B (chưa rõ lai lịch) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter (không rõ biển số) chở bị cáo đến nhà trọ số 29A/8, khu phố Đ, phường L, thành phố T, tỉnh B để tìm tài sản để lấy trộm. Lúc này B dừng xe bên ngoài cảnh giới còn bị cáo đi vào trong dãy trọ phát hiện phòng số 4 không khóa cửa, bên trong phòng có 02 người đang nằm ngủ là vợ chồng ông Đặng Văn T và bà Tô Mỹ T. Bị cáo phát hiện trên tủ nhựa trong phòng có để 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung A8 đang cắm sạc pin và 01 cái bóp da của ông Đặng Văn T nên đã lén lút vào phòng chiếm đoạt 01 điện thoại và 01 bóp da của ông Tài rồi nhanh chóng tẩu thoát cùng Bình. Khi đi đến đoạn đường Bình Hòa 20, khu phố Đồng An 3, phường Bình Hòa thì dừng xe kiểm tra bên trong bóp có 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Tô Mỹ Trang ngoài ra không có tài sản nào khác. Sau đó bị cáo cất giấu điện thoại Samsung A8 màu xám và 01 chứng minh nhân dân mang tên bà T vào túi quần còn chiếc bóp da thì bị cáo đã vứt bỏ dọc đường. Sau đó các đối tượng tiếp tục đi đến dãy nhà trọ số 1, phường B, thành phố T, tỉnh B để kiếm tài sản để trộm thì lực lượng công an phường Bình Hòa bắt giữ, còn đối tượng Bình thì nhanh chóng tẩu thoát. Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thống nhất với nhau, phù hợp với biên bản vụ việc, vật chứng thu giữ, lời khai của bị hại, người làm chứng, bản cáo trạng đã truy tố và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm và vi phạm pháp luật. Bị cáo thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp. Bản thân bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có trị giá là 2.850.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản. Vì vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi: Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được việc làm của mình là vi phạm, nhưng vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân, lười lao động, bị cáo không có nghề nghiệp, lợi dụng sự sơ hở rồi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, điều đó thể hiện bản chất của bị cáo coi thường pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt cần xem xét tính chất, mức độ phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và phạm tội gây thiệt hại không lớn. Do đó, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo.
[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngoài ra căn cứ vào Thông báo tình trạng sức khỏe người bị tạm giam số 463/CATP-NTG ngày 23/11/2020 của Nhà tạm giữ công an thành phố Thuận An thì trong thời gian đang bị tạm giam để chờ Tòa án xét xử bị cáo đối với hành vi trộm cắp tài sản thì bị cáo có hành vi trốn khỏi nơi giam giữ. Mặc dù hành vi trốn khỏi nơi giam giữ của bị cáo chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị can nhưng thể hiện bản chất bị cáo coi thường pháp luật.
[7] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và trong quá trình tố tụng người bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét.
[9] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung A8 màu xám của ông Đặng Văn T và 01 chứng minh nhân dân tên Tô Mỹ T cơ quan điều tra đã giao trả cho ông T và bà T là đúng quy định của pháp luật.
[10] Đối với đối tượng tên Bình đi cùng với bị cáo do chưa xác định được rõ nhân thân, lai lịch, địa chỉ nên khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
- Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Đặng Văn M 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/8/2020.
3. Về án phí: Bị cáo Đặng Văn M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật ./.
Bản án 344/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 344/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về