Bản án 342/2020/HNGĐ-ST ngày 27/03/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 342/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/03/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 27 tháng 03 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 1733/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 09 năm 2019 về việc "Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông N.T.Q., sinh năm 1992, Thường trú: 122E/61 Bùi Minh Trực, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: N.T.M.L., sinh năm 1933 (Vắng mặt), Thường trú: AA Điện Biên Phủ, Phường 21, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn ông N.T.Q. trình bày:

Ông và bà N.T.M.L. tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 21, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 68 Quyển số 01/2013 ngày 03/06/2013. Trong thời gian chung sống thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không hòa hợp. Ông và bà N.T.M.L. đã ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Vì vậy, ông yêu cầu ly hôn bà N.T.M.L. .

Về con chung: Có một con chung tên N.H.B., sinh ngày 01/01/2014. Ông đề nghị được trực tiếp nuôi trẻ Hoàng Bách, không yêu cầu bà N.T.M.L. cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn Bà N.T.M.L.:

Bị đơn bà N.T.M.L. đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, để tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 08/01/2020 và 16/01/2020 nhưng bà N.T.M.L. không đến làm việc và cũng không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình. Vì vậy, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bà N.T.M.L..

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh:

Nguyên đơn ông N.T.Q. khởi kiện bà N.T.M.L., thường trú tại quận Bình Thạnh, yêu cầu ly hôn và đề nghị trực tiếp nuôi con được Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh thụ lý đúng thẩm quyền. Từ khi thụ lý đến tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng quy định pháp luật. Các đương sự được nhận các văn bản tố tụng để thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn ông N.T.Q. yêu cầu ly hôn bà N.T.M.L., giao con chung N.H.B. sinh ngày 01/01/2014 cho ông N.T.Q. trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và ghi nhận sự tự nguyện của ông N.T.Q. không yêu cầu bà N.T.M.L. cấp dưỡng nuôi con, ông N.T.Q. phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

Nguyên đơn ông N.T.Q. khởi kiện yêu cầu ly hôn bà N.T.M.L. nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án.

Tại kết quả trả lời Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ số 1805/2019/QĐ-CCTLCC ngày 25/079/2019 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Công an Phường 3, quận Bình Thạnh xác định: Bà N.T.M.L., sinh năm 1992 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại AA Điện Biên Phủ, Phường 21, quận Bình Thạnh. Tháng 7 năm 2019 bán nhà, đi đâu không rõ địa chỉ cư ngụ hiện nay . Căn cứ khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự năm 2015, điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, trường hợp này được coi là cố tình giấu địa chỉ và xác định nơi cư trú cuối cùng của bị đơn bà N.T.M.L. là AA Điện Biên Phủ, Phường 21, quận Bình Thạnh nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Bình Thạnh theo quy định tại Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa:

Xét bị đơn bà N.T.M.L. đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt tại phiên tòa được triệu tập lần thứ hai mà không có lý do, nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn bà N.T.M.L..

[3] Về quan hệ hôn nhân:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 68/2013 Quyển số 01/2013 ngày 03/06/2013 của Ủy ban nhân dân Phường 21, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, có đủ cơ sở xác định quan hệ hôn nhân của bà N.T.M.L. và ông N.T.Q. là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành giải thích, hòa giải, động viên ông N.T.Q. đoàn tụ gia đình để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, ông N.T.Q. cho biết do mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài trở nên trầm trọng mặc dù cả hai đã tự hòa giải nhưng không thành và hai bên đã sống ly thân từ lâu dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, không thể đoàn tụ được. Tại phiên tòa, ông N.T.Q. vẫn giữ yêu cầu ly hôn bà N.T.M.L.. Đối với bị đơn bà N.T.M.L., Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng cũng như để bà N.T.M.L. thực hiện quyền tranh tụng, nhưng bà N.T.M.L. không tham gia cũng không có bất kỳ ý kiến gì đối với khởi kiện của ông N.T.Q.. Điều này cho thấy bà N.T.M.L. đã bỏ mặc quan hệ hôn nhân giữa bà N.T.M.L. và ông N.T.Q., không có ý định hòa giải đoàn tụ. Từ đó, Hội đồng xét xử nhận thấy quan hệ hôn nhân giữa ông N.T.Q. và bà N.T.M.L. tồn tại mâu thuẫn, vợ chồng không còn chung sống, mục đích hôn nhân không đạt được như quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình, và ông N.T.Q. vẫn giữ yêu cầu ly hôn nên xét thấy hôn nhân giữa ông N.T.Q. và bà N.T.M.L. không thể kéo dài. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, yêu cầu khởi kiện của ông N.T.Q. về việc ly hôn bà N.T.M.L. có cơ sở để chấp nhận, đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.

[4] Về con chung:

Tại phiên tòa, nguyên đơn ông N.T.Q. đề nghị được nuôi con chung tên N.H.B., sinh này 01/01/2014, không yêu cầu bà N.T.M.L. cấp dưỡng nuôi con.

Theo trình bày của nguyên đơn và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ông N.T.Q. và bà N.T.M.L. có một con chung tên N.H.B., sinh này 01/01/2014. Tại phiên tòa, ông N.T.Q. xác định trẻ N.H.B. đang ở cùng với ông và được ông chăm sóc từ khi sinh ra cho đến nay. Căn cứ Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình và tình hình thực tế nhằm đảm bảo quyền lợi và lợi ích về mọi mặt tốt nhất cho sự phát triển của trẻ chưa thành niên, Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông N.T.Q.: Giao con chung tên N.H.B. cho ông N.T.Q. trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, nên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

Tại phiên tòa, ông N.T.Q. không yêu cầu bị đơn bà N.T.M.L. cấp dưỡng nuôi con chung. Xét đây là sự tự nguyện của nguyên đơn, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về tài sản chung:

Xét không đương sự nào yêu cầu Toà án giải quyết tài sản chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn ông N.T.Q. phải chịu án phí sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 63, Điều 147, Điều 192, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 và Điều 483 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;

Căn cứ khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ông N.T.Q. ly hôn bà N.T.M.L..

2. Về con chung:

2.1. Giao con chung tên N.H.B., sinh này 01/01/2014 cho ông N.T.Q. trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

2.2. Ghi nhận sự tự nguyện ông N.T.Q. không yêu cầu bà N.T.M.L. cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trong trường hợp lạm dụng việc thực hiện quyền này để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì người trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại Điều 86 Luật Hôn nhân và Gia đình có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chưa thành niên của người không trực tiếp nuôi con.

Vì lợi ích của con, một hoặc các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không có đương sự nào yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Án phí sơ thẩm:

Án phí sơ thẩm giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) ông N.T.Q. phải chịu, được cấn trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0021752 ngày 13 tháng 09 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh. Ông N.T.Q. đã nộp đủ án phí.

5. Quyền yêu cầu thi hành án:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 342/2020/HNGĐ-ST ngày 27/03/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:342/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:27/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về