Bản án 342/2020/HNGĐ-ST ngày 23/10/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 342/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/10/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 10 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 247/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2020 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 286/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 346/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đặng Trần Văn C, sinh năm 1985; Địa chỉ: Số 136, khu phố 1, phường TD, thành phố BH, tỉnh ĐN (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1988; Địa chỉ: Số 276/2, khu phố 8A, phường TB, thành phố BH, tỉnh ĐN (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn ông Đặng Trần Văn C có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, theo đơn khởi kiện, các lời khai, tài liệu, chứng cứ thu thập có tại hồ sơ ông Đặng Trần Văn C trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi (Đặng Trần Văn C) và bà Nguyễn Thị Thanh T tự nguyện tìm hiểu, chung sống với nhau từ năm 2015, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) phường TB, thành phố BH, tỉnh ĐN và được UBND phường TB cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 149/2015, quyển số 01/2015, ngày 24/7/2015.

Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng sau đó thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hiểu nhau nên có nhiều khác biệt về quan điểm sống, cách sống và phát sinh nhiều mâu thuẫn khác trong cuộc sống không thể giải quyết được dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã lẫn nhau, gây xào xáo trong gia đình. Vợ chồng sống ly thân được khoảng 02 năm nay, mỗi người ở một nơi. Tôi nhận thấy vợ chồng chung sống với nhau không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã quá trầm trọng, không thể chung sống với nhau được nữa, mục đích hôn nhân không còn đạt được nên tôi làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh T.

- Về con chung: Tôi và bà Nguyễn Thị Thanh T không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh T Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và văn bản tố tụng đến Tòa án để tham gia tố tụng nhưng bị đơn đều vắng mặt không lý do nên không có lời khai tại hồ sơ và tại phiên tòa.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa sơ thẩm:

- Về thủ tục tố tụng:

+ Về quan hệ pháp luật: Tòa án xác định quan hệ pháp luật “Ly hôn” là đúng.

+ Về tư cách đương sự: Tòa án xác định tư cách đương sự trong vụ án là đúng.

+ Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án Hôn nhân và gia đình đúng thẩm quyền.

+ Về thời hạn giải quyết vụ án: Đảm bảo đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.

 - Về việc tuân theo quy định pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về việc tuân thủ pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định của pháp luật. Bị đơn không thực hiện theo quy định của pháp luật.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Đặng Trần Văn C về quan hệ hôn nhân. Còn về con chung, tài sản chung và nợ chung không có, đương sự không yêu cầu nên không đề nghị xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Ông Đặng Trần Văn C có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1988; Địa chỉ: Số 276/2, khu phố 8A, phường TB, thành phố BH, tỉnh ĐN. Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Nguyên đơn ông Đặng Trần Văn C có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa, xét đơn ông C làm hợp lệ nên chấp nhận. Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh T Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và văn bản tố tụng đến Tòa án để tham gia tố tụng nhưng bị đơn đều vắng mặt không lý do. Căn cứ vào các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Đặng Trần Văn C và bà Nguyễn Thị Thanh T chung sống với nhau từ năm 2015, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND phường TB, thành phố BH, tỉnh ĐN và được UBND phường TB cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 149/2015, quyển số 01/2015, ngày 24/7/2015. Căn cứ vào các Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, hôn nhân giữa ông C và bà T được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Theo đơn khởi kiện và các lời khai có tại hồ sơ, nguyên đơn ông Đặng Trần Văn C kiên quyết đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh T, vì mâu thuẫn vợ chồng đã rất trầm trọng, vợ chồng chính thức sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay, mỗi người ở mỗi nơi, không còn quan tâm đến nhau nên tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không còn đạt được. Theo biên bản xác minh ngày 20/6/2020 tại Công an phường TB, thành phố BH có ghi nhận nội dung: “Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1988 có hộ khẩu thường trú và hiện đang sinh sống tại địa chỉ: Số 276/2, khu phố 8A, phường TB, thành phố BH, tỉnh ĐN”. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tổ chức phiên họp hòa giải để ông C và bà T đoàn tụ nhưng bà T đều vắng mặt không đến Tòa án tham gia tố tụng nên Tòa án lập biên bản không tiến hành hòa giải đoàn tụ được. Việc bà T không đến Tòa án cung cấp chứng cứ chứng minh là tự tước bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Qua xem xét đơn khởi kiện, trình bày của nguyên đơn và chứng cứ, tài liệu thu thập được có tại hồ sơ, HĐXX xét thấy ông C và bà T trong thời kỳ hôn nhân phát sinh nhiều mâu thuẫn không khắc phục được, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay, mỗi người ở mỗi nơi, không còn quan tâm chăm sóc nhau, không còn sống chung đời sống vợ chồng dẫn đến tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không còn đạt được nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét xử cho ông Đặng Trần Văn C được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh T.

- Về con chung: Ông Đặng Trần Văn C và bà Nguyễn Thị Thanh T không có con chung nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[3]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[4] Về án phí:

Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Ông Đặng Trần Văn C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Căn cứ các Điều 8, 9 và 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đặng Trần Văn C về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Đặng Trần Văn C được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh T.

- Về nuôi con chung: Ông Đặng Trần Văn C và bà Nguyễn Thị Thanh T không có con chung nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

 - Về nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Ông Đặng Trần Văn C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm. Được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí ông C đã nộp theo biên lai thu số 0007741 ngày 27/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Ông C đã nộp đủ án phí.

3. Về kháng cáo: Nguyên đơn ông Đặng Trần Văn C và bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh T đều vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 342/2020/HNGĐ-ST ngày 23/10/2020 về ly hôn

Số hiệu:342/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về