Bản án 342/2017/HSPT ngày 19/05/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 342/2017/HSPT NGÀY 19/05/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 19 tháng 5 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 195/2017/HSPT ngày 24 tháng 02 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Quế H do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q đối với bản án hình sự sơ thẩm số 01/2017/HSST ngày 09 tháng 01 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Q, thành phố Hà Nội:

Bị cáo bị kháng nghị: Nguyễn Quế H, sinh năm: 1991, giới tính: nam; trú tại: thôn Y, xã T, huyện Q, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do, văn hoá 8/12; Con ông Nguyễn Quế N (đã chết) và bà Vương Thị L sinh năm 1967, vợ con chưa có; Theo danh chỉ bản số: 153 do Công an huyện Q lập ngày 9/8/2016 thì bị cáo có tiền án tiền sự sau:

- Ngày 05/5/2009 trộm cắp tài sản bị UBND huyện Q quyết định đưa vào trường giáo dưỡng thời gian 6 tháng.

-Tại bản án hình sự sơ thẩm số 24/2014/HSST ngày 24/6/2014 Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (chưa được xóa án tích)

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/8/2016. Hiện đang bị tạm giam tại trại giam số 2-cơ sở 01- Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Q, thành phố Hà Nội, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 28/7/2016 Nguyễn Quế H từ quán Internet nhà chị T ở xã T, huyện Q, thành phố Hà Nội đi bộ theo hướng xã Cộng Hoà xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản, khi đi đến thôn 1 xã T H thấy nhà ông Nguyễn Tiến T xây tường bao thấp nên H trèo vào trong sân thấy có 03 chiếc xe máy dựng ở sân trong đó 01 chiếc xe máy hiệu Wave mầu xanh BKS:33N2-0076 vẫn cắm chìa khoá ở ổ điện. H mở cổng dắt xe máy ra và đi đến cánh đồng xã Tân Phú tháo BKS vứt đi rồi đến quán Internet ở khu vực Mỹ Đình Hà Nội chơi đến 22 giờ ngày 29/7/2016, H gọi điện cho Kiều Trí H, sinh năm 1989 trú tại xã T, huyện P, Hà Nội nhờ bán hộ chiếc xe, H1 hỏi nguồn gốc chiếc xe H nói vừa lấy trộm ở khu vực Mỹ Đình nghe vậy H1 bảo H mang đến quán nước của H1 tại khu vực Thiên đường Bảo Sơn. Sáng ngày 30/7/2016 H mang xe đến gặp H1 và bạn của H1 là Nguyễn Viết Đ, sinh năm 1992, trú tại xã A, huyện H, Hà Nội. H1 nói với H, Đạt là người mua xe và Đạt lấy xe máy của H đi về nhà đến khoảng 22 giờ cùng ngày Đạt quay lại và đưa cho H1 1.000.000 đồng để trả tiền mua xe của H, H1 đưa cho H 700.000 đồng còn 300.000 theo lời H khai là H1 mượn lại, H cầm số tiền 700.000 đồng tiêu sài cá nhân hết. Chiếc xe trên gia đình nhà Nguyễn Văn Đạt đã tự nguyện nộp cho cơ quan điều tra và được hội đồng định giá chiếc xe có giá trị là 7.500.000 đồng.

Quá trình điều tra H còn khai nhận gây ra 05 vụ trộm cắp tài sản khác trên địa bàn xã T , huyện Q, Hà Nội cụ thể.

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 0h 30’ ngày 28/4/2016 H vào nhà anh Nguyễn Tiến Q ở thôn 5 xã T , huyện Q, lấy 01 bộ máy bơm nước thuỷ lực mô tơ 2KW rồi đem bán cho anh Nguyễn Văn P ở xã Đ, Q, Hà Nội (chuyên thu mua sắt vụn) với giá 600.000 đồng sau đó vợ anh phẩm là chị Đào Thị T bán cho người khác không biết địa chỉ, chiếc máy bơm được Hội đồng định giá tài sản xác định giá trị 1.200.000 đông

Vụ thứ hai: Khoảng 01h10’ ngày 03/5/2016 H trèo qua tường bao vào nhà chị Xuân Thị L ở thôn 5 xã T , huyện Q lấy 01 máy cắt sắt hiệu LACELA, 01 máy Hàn kim loại hiệu KULA rồi mang bán cho anh P được 700.000 đồng, số tài sản đó anh P đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan điều tra và được Hội đồng định giá xác định chiếc máy cắt sắt có giá trị 1.200.000 đồng và máy Hàn là 1.300.000 đồng tổng giá trị là 2.500.000 đồng

Vụ thứ ba: Khoảng 02h ngày 06/5/2016 H vào nhà anh Vương Đình T ở thôn 2 xã T , huyện Q lấy 01 đỉnh đồng, 02 đế đèn cầy bằng đồng và 70.000 đồng sau đó H bán cho chị Đào Thị T vợ anh P được 200.000 đồng, số tài sản đó chị T đã tự nguyện nộp cho cơ quan điều tra và được Hội đồng định giá tài sản định giá là 1.100.000 đồng.

Vụ thứ 4: Khoảng 01h ngày 24/6/2016 H vào nhà anh Nguyễn N ở thôn 1 xã T , huyện Q lấy 01 xe máy Wave Trung Quốc BKS: 29M2 -1399 rồi đi đến nhà nghỉ Hương Quê thuộc xã Vân Côn, Hoài Đức, Hà Nội do chị Nguyễn Thị H làm chủ, thuê phòng ngủ đến trưa H dậy đi về và gửi lại chị H chiếc xe, chị H đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan điều tra và được Hội đồng định giá chiếc xe có giá 500.000 đồng.

Vụ thứ 5: Khoảng 02h ngày 21/7/2016 H vào nhà anh Vương Trí H ở thôn 6 xã T , huyện Q lấy trộm 01 máy đục bê tông hiệu MAKITA, 01 máy Hàn kim loại mầu đỏ hiệu ZASICH và 01 máy cắt sắt hiệu CROW rồi đem bán cho anh Phẩm 800.000 đồng sau đó anh Phẩm bán lại cho người khác không rõ địa chỉ. Tài sản trên được Hội đồng định giá xác định có giá trị là 3.600.000 đồng.

Tại Bản án sơ thẩm số 01/2017/HSST ngày 09/01/2017 Tòa án nhân dân huyện Q, thành phố Hà Nội áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Quế H 33 (ba ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/8/2016.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 23 tháng 01 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, thành phố Hà Nội kháng nghị số 01, đề nghị xét xử phúc thẩm tuyên tịch thu sung quỹ số tiền bị cáo Nguyễn Quế H đã thu lợi bất chính.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận nội dung bản án sơ thẩm nêu là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

-Về hình thức: Kháng nghị của Viện kiểm sát trong hạn luật định là hợp lệ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

-Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, Hành vi của bị cáo đã rõ, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên buộc bị cáo H phải truy nộp số tiền thu lợi bất chính là chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Đề nghị chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, buộc bị cáo H phải truy nộp số tiền 3.000.000đ sung quỹ Nhà nước.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

XÉT THẤY

Về hình thức: Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, thành phố Hà Nội trong hạn luật định là hợp lệ, nên được chấp nhận.

Về nội dung: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, phù hợp với vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, như vậy đủ cơ sở kết luận:

Trong khoảng thời gian từ ngày 28/4/2016 đến ngày 28/7/2016 bị cáo đã lợi dụng trong đêm khuya lén lút liên tục trộm cắp 06 vụ trên địa bàn xã T , huyện Q, thành phố Hà Nội. Tài sản bị cáo trộm cắp được gồm:

- 01xe máy của anh Nguyễn Tiến T.

- 01 xe máy của anh Nguyễn N.

- 01 đỉnh đồng, 01 đế và 02 cây đèn cầy bằng đồng và 70.000 đồng của anh Vương Đình T.

- 01 máy cắt sắt, 01 máy Hàn kim loại của chị Xuân thị L.

- 01 máy bơm nước thuỷ lực của anh Nguyễn Tiến Q.

- 01 máy khoan bê tông, 01 máy Hàn kim loại và 01 máy cắt sắt của anh Vương Trí H.

Tổng trị giá: 16.470.000đ.

Với Hành vi như trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, thành phố Hà Nội, Hội đồng xét xử nhận thấy, Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm mất trật tự trị an pháp luật, đã xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo đã trộm cắp tổng trị giá tài sản 16.470.000đ. Số tài sản trên đã thu hồi trả lại cho các bị hại, nhưng bị cáo được hưởng lợi số tiền 3.000.000đ từ việc bán tài sản đã trộm cắp, đây là tiền do trộm cắp mà có. Bị cáo có nhân thân xấu, với tính chất mức độ Hành vi phạm tội của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt 33 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên buộc bị cáo H phải truy nộp số tiền thu lợi bất chính 3.000.000đ là thiếu sót. Do vậy, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tHành phố Hà Nội, buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 3.000.000đ để sung quỹ NHà nước.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố Tụng  hình sự;

Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, thành phố Hà Nội, sửa một phần quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 01/2017/HSST ngày 09/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện Q, thành phố Hà Nội.

Áp dụng 41 Bộ luật hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí về lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Quế H phải truy nộp số tiền thu lợi bất chính 3.000.000đ sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

332
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 342/2017/HSPT ngày 19/05/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:342/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về