Bản án 34/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về ly hôn giữa chị L và anh H

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 34/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ L VÀ ANH H

Ngày 30/6/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Ý Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 50/2021/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trịnh Khánh L - Sinh năm: 2002.

Bị đơn: Anh Trịnh Văn H – Sinh năm 1992.

Cùng địa chi: Thôn B, xã Yên P, huyện Ý Yn, tỉnh Nam Định. (Chị L xin vắng mặt, anh H vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong đơn khởi kiện ngày 01/3/2021, bản tự khai ngày 23/4/2021 nguyên đơn chị Trịnh Khánh L trình bày:

Chị và anh Trịnh Văn H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Yên Phong, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định vào ngày 26/02/2020. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 05 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, anh H có tính chơi bời, tụ tập đã nhiều lần đánh đập chị, không quan tâm đến vợ, con. Hiện nay chị và anh H đã sống ly thân nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị xin ly hôn anh H.

Về con chung: Chị và anh H có 01 con chung là Trịnh Phương Anh, sinh ngày 30/01/2020. Chị đề nghị được nuôi con chung, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản chung và các vấn đề khác có liên quan trong quan hệ hôn nhân: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trịnh Văn H đã được tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh H không đến Tòa án làm việc nên Tòa án không ghi được lời khai của anh H và không tiến hành hòa giải được cho anh chị. Chị L có đơn đề nghị Toà án không tiến hành hoà giải. Toà án đã thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho các đương sự và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

2. Tại biên bản lấy lời khai ngày 03/6/2021, bà Nguyễn Thị H1 (Mẹ đẻ anh Trịnh Văn H) cho biết:

Bà xác nhận về thời gian, điều kiện kết hôn giữa chị L và anh H như chị L trình bày là đúng. Theo bà, sau khi kết hôn vợ chồng chị L và anh H sống với nhau hạnh phúc được 05 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Chị L, anh H cùng có tính tình chơi bời, vay nợ. Chị L, anh H hiện tại đang sống ly thân nhau. Bà cho biết quan điểm của anh H cũng đồng ý ly hôn và mong muốn được giải quyết vắng mặt. Gia đình bà và anh H đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh H nhưng vì bận công việc nên anh H không đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn với chị L được.

Về con chung: Bà xác nhận quá trình chung sống chị L và anh H có 01 con chung là Trịnh Phương A, sinh ngày 30/01/2020. Anh H có quan điểm đồng ý để chị L nuôi con chung, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L.

Về tài sản chung và các vấn khác có liên quan trong quan hệ hôn nhân: Chị L, anh H không có gì liên quan.

3. Tại biên bản làm việc tại UBND xã Yên Phong, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định ngày 03/6/2021 để thu thâp chưng cư về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng chị L và anh H, đại diện chính quyền địa phương cung cấp:

Vợ chồng chị L và anh H có đăng ký kết hôn tại UBND xã Yên Phong vào năm 2020, sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc được 05 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống hôn nhân, hiện tại anh H, chị L đã sống ly thân nhau. Địa phương cũng xác nhận vợ chồng chị L và anh H có 01 con chung là Trịnh Phương A, sinh ngày 30/01/2020. Nay chị L có đơn xin ly hôn anh H, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

4. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội đồng xét xử, thư ký phiên toà trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án: Đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bô luât tố tung Dân sư. Bị đơn không chấp hành và thực hiện đúng các quyền của mình theo Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình: Xử ly hôn giữa chị Trịnh Khánh L và anh Trịnh Văn H; Về con chung: Đề nghị áp dụng Điều 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Trịnh Phương A, sinh ngày 30/01/2020 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng; Về tài sản chung và các vấn đề khác có liên quan trong quan hệ hôn nhân: Không có yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Tại phiên tòa: Chị L có đơn xin vắng mặt, anh H vắng mặt không có lý do lần thứ hai. Chủ tọa phiên tòa công bố tóm tắt nội dung vụ án và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thảo luận về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Trịnh Văn H có hộ khẩu thường trú tại thôn Bồng Quỹ, xã Yên Phong, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trịnh Khánh L thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Ý Yên là phù hợp quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Việc vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn: Trong quá trình giải quyết vụ án chị Trịnh Khánh L đề nghị xin xét xử vắng mặt; anh Trịnh Văn H mặc dù đã được Toà án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại các Điều 227, 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Khánh L và anh Trịnh Văn H kết hôn với nhau năm 2020 có đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Yên Phong, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định trên cơ sơ tư nguyên nên la hôn nhân hơp phap. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc được thời gian 05 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Chị L cho rằng anh H có tính chơi bời, hay tụ tập, không quan tâm đến vợ con. Hiện tại chị L, anh H đã sống ly thân nhau. Chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H. Anh H mặc dù biết được việc chị L xin ly hôn nhưng anh H vẫn không đến Tòa án để giải quyết, điều này thể hiện anh H không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị L, xử cho chị và anh H ly hôn là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị L, anh H có 01 con chung là Trịnh Phương Anh, sinh ngày 30/01/2020. Chị L đề nghị được nuôi con chung, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. HĐXX xét thấy cháu Trịnh Phương Anh còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi hiện đang do chị L trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc do đó cháu rất cần bàn tay chăm sóc của người mẹ nên thấy giao cháu Trịnh Phương Anh cho chị L nuôi dưỡng và chấp nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị là đảm bảo quyền lợi của cháu Trịnh Phương Anh và phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung và các vấn đề khác trong quan hệ hôn nhân: Chị L không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị L phải chịu theo quy định của pháp luật.

[6] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của Điều 271, 272 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 107, 110, 116. 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử ly hôn giữa chị Trịnh Khánh L và anh Trịnh Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Trịnh Phương A, sinh ngày 30/01/2020 cho chị Trịnh Khánh L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Trịnh Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Trịnh Khánh L.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí:

Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trịnh Khánh L phải nộp là 300.000 đồng. Đối trừ với số tiền 300.000 đồng chị Trịnh Khánh L đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2015/0001697, ngày 19/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ý Yên. Chị Trịnh Khánh L đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

3. Quyền khang cao: Chị L, anh H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

354
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về ly hôn giữa chị L và anh H

Số hiệu:34/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện ý Yên - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về