Bản án 34/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 34/2020/HS-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2020/QĐXXST-HS ngày 06/11/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Ngọc M, sinh ngày 20 tháng 6 năm 1971 tại Bình Thuận. Nơi cư trú: Ấp Th, xã B, huyện X, tỉnh B. Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 1/12; nghề nghiệp: Làm thuê; cha là Đỗ Ngọc Ch (đã chết và mẹ là Lê Thị K (đã chết); Năm 1990 chung sống như vợ chồng với bà Dương Thị L và có 01 người con sinh năm 1995; Năm 2013, chung sống như vợ chồng với bà Huỳnh Thị U; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã và tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/8/2020 đến nay, (có mặt).

Bị hại: Anh Nguyễn Hữu T, sinh năm 1985. Trú tại: Ấp N, xã H, huyện D, tỉnh B, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bị cáo Đỗ Ngọc M và chị Huỳnh Thị U chung sống với nhau như vợ chồng tại ấp N, xã H, huyện D, tỉnh B. Đến tối ngày 08/4/2020, Đỗ Ngọc M chạy xe mô tô hiệu Mingxing, biển số 86F8-2184 đến quán cà phê của Võ Văn Lắm, sinh năm 1978, trú ấp N, xã H, huyện D để đánh bài binh xập xám ăn thua bằng tiền gồm: Đỗ Ngọc M, Võ Văn Lắm, Bùi Văn Tổng, sinh năm 1991 và Trần Phước Bình, sinh năm 1963 cùng trú ấp N, xã H, huyện D. Quá trình đánh bài ăn tiền thì Đỗ Ngọc M đánh bài thua Tổng 900.000 đồng, Bình 600.000 đồng. Do không có tiền trả nên Minh để lại chiếc xe hiệu Mingxing, biển số 86F8-2184 cho Tổng giữ.

Đến khoảng 07 giờ ngày 09/4/2020 Đỗ Ngọc M nảy sinh chiếm đoạt xe của Nguyễn Hữu T nên Minh đi bộ lại nhà Bùi Thị Tuơi, sinh năm 1976 tại ấp N, xã H, huyện D để gặp Tế thì Minh nói: “Cho ông dượng mượn xe đi qua Đền Thờ Bác khoảng 1 tiếng để đi sửa xe” nhưng thực tế không có sửa xe mà bịa đặt ra để chiếm đoạt thì Tế nói “đi khoảng 1 tiếng thì được”; Minh nói tiếp “cấp này giao thông hay đón cho dượng mượn giấy tờ xe luôn đi, có gì gặp giao thông cũng không phiền phức”, Tế tưởng là thật nên đưa chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại Blade, màu trắng - đen, biển số 94F1-185.03 cùng với giấy đăng ký xe cho Minh. Khoảng 11 giờ cùng ngày không thấy Minh đem chiếc xe về trả nên Tế điện thoại cho Minh hỏi thì Minh trả lời “đang trên đường về”, đến chiều Tế tiếp tục điện cho Minh nhiều lần nhưng không liên lạc được. Sau khi lấy được chiếc xe của Tế thì Minh chạy xe về Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang rồi đi tàu biển. Sau đó, Minh đem chiếc xe của Tế cầm cho Nguyễn Quốc Khánh, sinh năm 1986, trú ấp Hiệp Lợi, xã Mỹ Hiệp Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang với số tiền 5.000.000 đồng, trên đường đi thấy đá gà ăn tiền nên tham gia đá hàng sáo với người không biết tên, không biết địa điểm cụ thể nhưng không ăn không thua. Đến 03 ngày sau thì Minh đến gặp Khánh nói bán chiếc xe trên với giá 7.000.000 đồng thì Khánh đồng ý và đưa tiền thêm cho Minh 2.000.000 đồng (khi mua xe thì Khánh không biết do phạm tội mà có), Minh đem đi đá gà ăn tiền với người khác không biết tên và địa điểm cụ thể thì thua hết số tiền trên. Ngày 16/4/2020 Nguyễn Hữu T đến Công an xã Ninh Hòa trình báo sự việc.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 07 ngày 23/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hồng Dân như sau: 01 (một) chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại Blade, màu trắng - đen, biển số 94F1-185.03, số máy JA36E0243084, số khung RLHJA3615EY131498 có giá trị là 11.000.000 đồng.

Tại Cáo trạng số: 37/CT-VKS ngày 29/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu truy tố bị cáo Đỗ Ngọc M về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo xác định trong quá trình điều tra không bị ép cung hay hướng dẫn khai không đúng, việc điều tra truy tố và xét xử bị cáo tại phiên tòa hôm nay là không bị oan nên yêu cầu có mức án thấp nhất để yên tâm cải tạo, sớm trở về gia đình.

Bị hại xác định, đã nhận lại xe nên không yêu cầu bồi thường, về hình sự đề nghị xử lý theo pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có khiếu nại về hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, nên hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Vì động cơ vụ lợi nên ngày 09/4/2020, bị cáo Đỗ Ngọc M nảy sinh chiếm đoạt chiếc xe của anh Nguyễn Hữu T, nên bị cáo đưa ra thông tin gian dối là mượn xe đi sửa xe của bị cáo khoảng 01 giờ sẽ trả lại, làm cho bị hại tin tưởng là thật nên đưa cho bị cáo mượn chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại Blade, màu trắng - đen, biển số 94F1-185.03. Sau khi lấy được chiếc xe mô tô, lợi dụng bị hại không rõ nơi cư trú cụ thể của bị cáo ở tỉnh Kiên Giang nên bị cáo bỏ trốn về tỉnh Kiên Giang làm thuê, sau đó bán chiếc xe nêu trên lấy tiền tiêu xài cá nhân. Qua định giá tài sản, xe mô tô bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 11.000.000 đồng là có diễn ra trên thực tế.

[3] Bị cáo dùng lời nói gian dối làm cho bị hại tin tưởng là thật giao tài sản cho bị cáo, sau khi có tài sản bị cáo đã trốn tránh và bán xe của bị hại lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi chiếm đoạt tài sản, do bị cáo thực hiện nêu trên có đủ yếu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm hại đến tài sản của bị hại mà còn gây mất trật tự, trị an tại địa phương nên cần xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Khi quyết định hình phạt cho bị cáo, Hội đồng xét xử có xem xét bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi trả cho bị hại là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm. Đối với số tiền 7.000.000 đồng của Nguyễn Quốc Khánh mua chiếc xe của bị cáo, anh Khánh và gia đình bị cáo tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết trong vụ án này.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Đối với hành vi đánh bạc của bị cáo với Võ Văn Lắm, Bùi Văn Tổng và Trần Phước Bình thì chưa cấu thành tội đánh bạc nên Công an huyện Hồng Dân đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Võ Văn Lắm, Bùi Văn Tổng. Bị cáo bị khởi tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đang áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nên Công an huyện Hồng Dân xét thấy không cần thiết xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp. Đối với Trần Phước Bình qua xác minh không có địa phương, chưa làm việc được nên xử lý sau.

[9] Như đã phân tích, đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, về án phí, về vật chứng là phù hợp nên chấp nhận. Riêng về hình phạt có phần nghiêm khắc nên chỉ được chấp nhận một phần.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Ngọc M, phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc M 09 tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 29/8/2020.

3. Về án phí: Áp dụng các khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Đỗ Ngọc M phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án  bị cáo và bị hại có quyền kháng cáo bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:34/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về