Bản án 34/2020/HS-ST ngày 17/04/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 34/2020/HS-ST NGÀY 17/04/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2020/QĐXXST-HS ngày 03/4/2020 đối với bị cáo:

TRẦN THANH T; sinh ngày 27 tháng 5 năm 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú: Số nhà 346/55 đường Phan Văn T, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: nhân viên thu gom rác; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh H1 và bà Nguyễn Thị M; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam: 25/10/2019. (Có mặt ) 

Bị hại:

1. Công ty TNHH Đ, địa chỉ: số 15/10-15/10A đường Phạm Văn H, Phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Phú K, sinh năm 1987, nơi cư trú: Số nhà A9 đường Nguyễn Sỹ S, Phường E, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Bá T1, sinh năm 1977, địa chỉ: Số 326 đường Nguyễn Trọng T, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Anh Trần Phi H, sinh năm 1980, nơi cư trú: Số nhà 40/7 đường Trần Thánh T, Phường F, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Trần Thanh H1, sinh năm 1964, nơi cư trú: Số nhà 346/55 đường Phan Văn Trị, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

2. Ông Đinh Bá V, sinh năm 1960, nơi cư trú: Số nhà 56/35 đường Thích Quảng Đức, Phường G, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 23/10/2019, Trần Thanh T điều khiển xe gắn máy biển số 59S1- 933.73 chạy trên đường Nguyễn Trọng T, T nhìn thấy trên bảng hiệu của cửa hàng giày MWC tại địa chỉ số 326 đường Nguyễn Trọng Tuyển, Phường C, quận D (do ông Nguyễn Bá T1 là chủ hộ kinh doanh) có ghi số điện thoại 0936112149. Nảy sinh ý định lừa đảo để có tiền trả nợ nên T lấy điện thoại Nokia 105 có số thuê bao 0776862395 của mình gọi vào số điện thoại ghi trên bảng hiệu của cửa hàng giày MWC và tự xưng là cán bộ Công an Phường 1, quận Tân Bình, thông báo việc Công an sẽ kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy tại cửa hàng. Được nhân viên báo lại nên anh Trần Phi H là quản lý của cửa hàng gọi điện thoại lại cho T, T xưng là “Công phó Phường”, thông báo sắp đến cửa hàng kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy của cửa hàng và hứa sẽ lo chi phí lập phương án và tập huấn công tác phòng cháy chữa cháy cho nhân viên của cửa hàng, tổng cộng là 3.500.000 đồng nếu đồng ý thì đưa tiền cho T. Anh H đồng ý nên trưa ngày 23/10/2019, anh H đến cửa hàng đưa 01 phong bì bên trong có 3.500.000 đồng cho nhân viên tên Nguyễn Thị Thanh T, dặn chuyển cho “anh Công phó Phường”. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, T chạy xe đến cửa hàng nhận tiền, tuy nhiên sợ bị phát hiện nên khi chạy xe đến trước địa chỉ số nhà 265A đường Nguyễn Văn T, Phường I, quận H, T dừng lại và nhờ người đàn ông chạy xe ôm (không rõ lai lịch) đến cửa hàng giày MWC lấy đồ. Người đàn ông này đồng ý và đi khoảng 20 phút sau quay lại, đưa cho T 01 phong bì, bên trong có số tiền 3.500.000 đồng. Sau khi nhận tiền, T cho người đàn ông này 500.000 đồng. Số tiền 3.000.000 đồng còn lại T mang đi trả nợ. Nhưng do chưa đủ nên khoảng 19 giờ 20 phút cùng ngày, T tiếp tục sử dụng số điện thoại 0776862395 gọi điện thoại cho anh H quản lý cửa hàng giày MWC nói là cần chi phí xử lý vấn đề phòng cháy chữa cháy nên yêu cầu đưa thêm 2.000.000 đồng, anh H đồng ý. Như lần đầu, do sợ bị phát hiện nên T chạy xe gắn máy đến trước hẻm số 56 đường Thích Quảng Đ, Phường K, quận H thì thấy ông Đinh Bá V là người chạy xe ôm đang dừng xe đón khách, T nhờ ông V chạy đến cửa hàng giày lấy tiền. Ông V đồng ý chạy xe đi còn T đứng tại hẻm chờ. Khi đến cửa hàng giày MWC, ông V vào gặp chị T (nhân viên của cửa hàng) để lấy tiền thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình mời về trụ sở làm việc. Còn T không thấy ông V quay lại nên bỏ đi về nhà.

Cũng bằng thủ đoạn tương tự, tối ngày 23/10/2019, T gọi điện thoại đến cửa hàng Đ tại số 15/10 đường Phạm Văn H, Phường C, quận D nói là Công an sẽ kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy của cửa hàng. Sau đó anh Nguyễn Phú K (quản lý cửa hàng) gọi lại cho T. T xưng là “Công phó Công an Phường 01” và thông báo chuẩn bị kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy của cửa hàng, chi phí lo cho đoàn kiểm tra là 4.000.000 đồng, anh K đồng ý. Như các lần trước, do sợ bị phát hiện nên khoảng 11 giờ 30 phút ngày 24/10/2019, T đến trước chùa Hải Q, số 71/14 đường Nguyễn B, Phường L, quận D nhờ ông Trần Tấn L làm nghề chạy xe ôm đến cửa hàng Đ “lấy đồ cho anh C”. Ông Lộc đồng ý, khi đến cửa hàng, nhân viên cửa hàng đưa cho ông Lộc 01 bao thư bên trong có 4.000.000 đồng và 01 tH xốp, bên trong có 01 con tôm hùm Alaska (nhân viên của hàng nói là tặng riêng cho “anh C phó phường”). Sau khi nhận xong, ông L gọi điện thoại cho T thì T yêu cầu ông L đi đến ngã tư Phạm Văn Đ – Lê Quang Đ rồi lại tiếp tục kêu ông L chạy đến số 12D-12C Nguyên H, Phường M, quận N giao cho T. Tuy nhiên sau đó T không trực tiếp gặp ông L nhận mà lại thuê ông Trần Quốc H làm nghề chạy xe ôm đến gặp ông L để nhận. Ông H chạy đến gặp, đưa cho ông L số tiền 100.000 đồng và nhận số tiền và tôm trên, sau đó chạy đến đưa cho T tại trước số 9E Trần Quý C, Phường O, quận A. T trả công cho ông H 50.000 đồng. Do nghi ngờ hành vi của T nên anh H gọi điện thoại nói muốn biếu thêm 05 con cua và hẹn T đến tại trước địa chỉ 359 đường Nơ Trang L, Phường P, quận A để nhận, đồng thời anh K báo sự việc cho cơ quan Công an, nên khi Thảo vừa đến địa chỉ trên để nhận thì bị Cơ quan Công an kiểm tra và mời về trụ sở làm việc.

Tại cơ quan điều tra, TRẦN THANH T đã thừa nhận toàn bộ hành vi giả danh công an chiếm đoạt như nêu trên và khai Thảo chỉ là nhân viên làm nghề thu gom rác dân lập, không phải là Phó Công an phường, không làm trong ngành Công an, không biết ông Công là ai, chỉ nghe nói nên tự xưng là như vậy. Do cần tiền trả nợ nên T đã nảy sinh ý định giả danh công an, tự xưng tên là C, phó Phường để tạo lòng tin nhằm dễ lấy được tiền.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an quận Tân Bình đã làm việc với anh Lê Chí C – Phó Trưởng Công an Phường 1, quận Tân Bình, ông C cho biết không quen biết và không có mối quan hệ xã hội nào với đối tượng TRẦN THANH T, không có sự việc chỉ đạo cho ai liên hệ với cửa hàng giày MWC và cửa hàng Đ để thông báo kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy.

Làm việc với ông Đinh Bá V, ông Trần Tấn L, ông Trần Quốc H làm nghề chạy xe ôm, cả ba đều xác định được T thuê đi nhận hàng và tiền rồi mang về cho T để lấy tiền công, không biết việc giao nhận tài sản trên là do T phạm tội mà có. Ông V, ông L và ông H đều không quen biết với T, khi T chạy xe đến nói đi lấy đồ về sẽ được trả tiền công nên mới đồng ý. TRẦN THANH T khai nhận không có quen biết với ông V, ông L và ông H, không có bàn bạc trước với họ, chỉ vô tình gặp và nói họ đến lấy đồ giùm tại 02 cửa hàng trên và sẽ trả tiền công cho họ. Do đó, không có căn cứ để xử lý ông Đinh Bá V, ông Trần Tấn L, ông Trần Quốc H với vai trò đồng phạm. Ông Nguyễn Phú K (quản lý cửa hàng Đ) cho biết việc tặng thêm cho T 01 con tôm hùm và 05 con cua là cửa hàng tự nguyện đưa thêm cho T. Ông K không có yêu cầu T bồi thường trị giá con tôm hùm (không thu hồi được), riêng 05 con cua đã thu hồi trả lại cho cửa hàng nên ông không có yêu cầu gì.

Vật chứng vụ án:

- Tài sản bị chiếm đoạt:

+ Số tiền 5.500.000 đồng T chiếm đoạt của cửa hàng giày MWC. Trong đó 3.500.000 đồng là T đã tiêu xài, trả nợ nên không thu hồi được. 2.000.000 đồng do ông Đinh Bá V đến nhận thì Cơ quan công an phát hiện nên đã thu hồi trả lại cho cửa hàng MWC. Quá trình điều tra, gia đình T đã bồi thường lại 3.500.000 đồng, đại diện theo ủy quyền của cửa hàng là ông Trần Phi H không yêu cầu gì thêm và có đơn xin bãi nại cho T.

+ Số tiền 4.000.000 đồng T chiếm đoạt của cửa hàng Đ đã tiêu xài hết nên không thu hồi được. Quá trình điều tra, gia đình T đã bồi thường cho cửa hàng. Đại diện cửa hàng là ông Nguyễn Phú K có đơn xin bãi nại cho T.

- 01 USB Toshiba 16GB màu trắng chứa dữ liệu ghi nhận hình ảnh vụ việc.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen thu giữ của T, T dùng để liên lạc với 02 cửa hàng để chiếm đoạt tiền.

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Nuvou, biển số 59S1-93373 thu giữ của T. Qua xác minh, chủ sử hữu là ông Trần Thanh H1 (cha của T). Ngày 24/10/2019, T mượn xe của ông H1 nói đi công việc, ông H1 không biết T dùng vào việc phạm tội, phù hợp với lời khai của T. Cơ quan điều tra đã trả lại xe gắn máy cho ông H1.

- 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu đen và 01 xe gắn máy hiệu Suzuki biển số 52S2-3213 thu giữ của ông Đinh Bá V. Ông V khai điện thoại là do ông mua để liên lạc gia đình và công việc. Xe gắn máy trên là ông mua của cửa hàng xe gắn máy do anh Trần Văn T làm chủ để làm phương tiện chạy xe ôm. Anh T khai mua xe gắn máy trên từ chủ sử hữu xe Vũ Quang H và bán cho ông V vào ngày 12/4/2019. Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại và xe gắn máy trên cho ông V.

- 05 con cua là tài sản hợp pháp của cửa hàng Đ, cơ quan công an đã trả lại cho đại diện cửa hàng anh Nguyễn Phú K.

Tại bản cáo trạng số 44/CT-VKS ngày 27 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo TRẦN THANH T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát đã trình bày luận tội, cụ thể:

Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của bị cáo thì hành vi gọi điện và giả danh công an thông báo cho cửa hàng giày MWC và cửa hàng Đ sẽ bị kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy để yêu cầu đưa và chiếm đoạt tiền của cửa hàng giày MWC (do ông Nguyễn Bá T1 là chủ hộ kinh doanh) và Công ty TNHH Đ với tổng số tiền 9.500.000 đồng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật nhà nước bảo vệ, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo phạm tội do cố ý nên cần xử phạt bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa chung. Bị cáo 02 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nên thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuy nhiên, xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây ra thiệt hại không lớn; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đại diện của bị hại có đơn bãi nại cho bị cáo, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại. Từ căn cứ trên đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị hại Công ty TNHH Đ đã được gia đình bị cáo bồi thường, bị hại ông Nguyễn Bá T1 đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và được gia đình bị cáo bồi thường, hiện nay không ai không có yêu cầu gì thêm đối với bị cáo, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án:

- 01 USB Toshiba 16GB màu trắng chứa dữ liệu ghi nhận hình ảnh vụ việc là chứng cứ của vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu giao cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen thu giữ của T, T dùng để liên lạc với 02 cửa hàng để chiếm đoạt tiền. Xét thấy bị cáo dùng điện thoại vào việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Nuvou, biển số 59S1-93373 thu giữ của T. Qua xác minh, chủ sử hữu là ông Trần Thanh H1 (cha của T). Ngày 24/10/2019, T mượn xe của ông H1 nói đi công việc, ông H1 không biết T dùng vào việc phạm tội, phù hợp với lời khai của T. Cơ quan điều tra đã trả lại xe gắn máy cho ông H1. Hiện nay không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết lại.

- 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu đen và 01 xe gắn máy hiệu Suzuki biển số 52S2-3213 thu giữ của ông Đinh Bá V. Ông V khai điện thoại là do ông mua để liên lạc gia đình và công việc. Xe gắn máy trên là ông mua của cửa hàng xe gắn máy do anh Trần Văn T làm chủ để làm phương tiện chạy xe ôm. Anh T khai mua xe gắn máy trên từ chủ sử hữu xe Vũ Quang H và bán cho ông V vào ngày 12/4/2019. Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại và xe gắn máy trên cho ông V. Hiện nay không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết lại.

- 05 con cua là tài sản hợp pháp của cửa hàng Đ, cơ quan công an đã trả lại cho đại diện cửa hàng anh Nguyễn Phú K. Hiện nay không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết lại.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử chiếu cố hoàn cảnh bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa lổi lầm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được thì việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo TRẦN THANH T về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh tụng, thẩm tra các chứng cứ, nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội của bị cáo phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của bị cáo, thì hành vi gọi điện và giả danh công an thông báo cho cửa hàng giày MWC và cửa hàng Đ sẽ bị kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy để yêu cầu đưa và chiếm đoạt tiền của cửa hàng giày MWC (do ông Nguyễn Bá T1 là chủ hộ kinh doanh) và Công ty TNHH Đ với tổng số tiền 9.500.000 đồng của bị cáo là hành vi vi phạm pháp luật, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật nhà nước bảo vệ, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội do cố ý nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nên thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đồng thời qua phần phân tích, đánh giá, nhận định của đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội nhận thấy những căn cứ Viện kiểm sát viện dẫn làm căn cứ chứng minh hành vi phạm tội để đề nghị truy tố, xử phạt bị cáo như đã nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét thấy do muốn có tiền để phục vụ nhu cầu cá nhân nên bị cáo đã cố ý phạm tội, hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành, tuy hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thiệt hại không lớn (do tài sản đã được thu hồi và bồi thường), nhưng đã làm ảnh hưởng đến trật tự, an ninh tại địa phương, bị cáo phạm tội do cố ý nên cần xử phạt bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây ra thiệt hại không lớn; đại diện hợp pháp của bị hại có đơn bãi nại cho bị cáo, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Việc đại diện viện kiểm sát căn cứ tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân bị cáo để đề nghị áp dụng điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 174 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị hại Công ty TNHH Đ đã được gia đình bị cáo bồi thường, bị hại ông Nguyễn Bá T1 đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và được gia đình bị cáo bồi thường, hiện nay không ai không có yêu cầu gì thêm đối với bị cáo, do đó Hội đồng xét xử thống nhất không xem xét như đề nghị của Viện kiểm sát.

[5] Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 USB Toshiba 16GB màu trắng chứa dữ liệu ghi nhận hình ảnh vụ việc là chứng cứ của vụ án nên Hội đồng xét xử thống nhất tịch thu giao cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình lưu vào hồ sơ vụ án như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen thu giữ của bị cáo, xét thấy bị cáo dùng điện thoại vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử thống nhất tịch thu nộp ngân sách Nhà nước như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Nuvou, biển số 59S1-93373 thu giữ của bị cáo. Qua xác minh, chủ sử hữu là ông Trần Thanh H1 (cha của bị cáo). Ngày 24/10/2019, bị cáo mượn xe của ông H1 nói đi công việc, ông H1 không biết bị cáo dùng vào việc phạm tội, phù hợp với lời khai của bị cáo. Cơ quan điều tra đã trả lại xe gắn máy cho ông H1. Hiện nay không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử thống nhất không giải quyết lại như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu đen và 01 xe gắn máy hiệu Suzuki biển số 52S2-3213 thu giữ của ông Đinh Bá V. Ông V khai điện thoại là do ông mua để liên lạc gia đình và công việc. Xe gắn máy trên là ông mua của cửa hàng xe gắn máy do anh Trần Văn T làm chủ để làm phương tiện chạy xe ôm. Anh T khai mua xe gắn máy trên từ chủ sử hữu xe Vũ Quang H và bán cho ông V vào ngày 12/4/2019. Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại và xe gắn máy trên cho ông V. Hiện nay không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử thống nhất không giải quyết lại như đề nghị của Viện kiểm sát. - Đối với 05 con cua là tài sản hợp pháp của cửa hàng Đ, cơ quan công an đã trả lại cho đại diện cửa hàng anh Nguyễn Phú K. Hiện nay không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết lại như đề nghị của Viện kiểm sát.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí, lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo TRẦN THANH T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. sản”.

Xử phạt: TRẦN THANH T 08 (tám) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2019.

[2] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, số imei: 357678101904854 (Tình trạng theo Phiếu nhập kho vật chứng của Công an quận Tân Bình).

Tịch thu giao cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình lưu vào hồ sơ vụ án 01 bì thư đã được niêm phong, có hình dấu của Công an Phường 1, quận Tân Bình, bên trong có 01 USB (Tình trạng theo Phiếu nhập kho vật chứng của Công an quận Tân Bình).

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015).

Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015).

[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2020/HS-ST ngày 17/04/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:34/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về