Bản án 34/2020/HSST ngày 04/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 34/2020/HSST NGÀY 04/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 8 năm 2020, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2020/HSST ngày 10 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2020/HSST - QĐXX, ngày 20 tháng 7 năm 2020, đối với bị cáo: Nguyễn Đình T, sinh năm 1992, Tại tỉnh Thanh Hóa; Tên gọi khác: Tùng gà; Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Tổ 11, ấp 8, xã LTh, huyện LN, tỉnh Bình Phước; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Phi H, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1969, cùng trú tại tổ 11, ấp 8, xã LTh, huyện LN, tỉnh Bình Phước.

Tiền sự: Không; Tiền án: 4; Ngày 22/6/2015 tại Bản án số 53/2015/HSST Nguyễn Đình T bị Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xử phạt 9 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Ngày 27/8/2015 tại Bản án số 78/2015/HSST Nguyễn Đình T bị Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Ngày 24/7/2017 tại Bản án số 31/2017/HSST Nguyễn Đình T bị Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản và Ngày 3/8/2018 tại bản án số 34/2015/HSST Nguyễn Đình T bị Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xử phạt 01 tù về tội trộm cắp tài sản, bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1988 (Vắng mặt) Trú tại: Tổ 01, ấp ThT, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phạm Thanh H, sinh năm 1974 (Vắng mặt) Trú tại: Tổ 02, ấp SB, xã ThPh, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.

2. Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1989 (Vắng mặt) Trú tại: Tổ 11, ấp 8, xã LTh, huyện LN, tỉnh Bình Phước

3. Ông Nguyễn Quang Th, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Trú tại: Tổ 2, ấp 2, xã LH, huyện LN, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 25/02/2020 Nguyễn Đình T là người đang có tiền án về tội trộm cắp tài sản. T điều khiển xe mô tô biển số kiểm soát 93F1 – 18246 chở theo Nguyễn Quang Th đi trên đường Quốc lộ 13 hướng Lộc Ninh đi thị xã Bình Long. Trên đường đi Th bàn với T đi tìm tài sản để chiếm đoạt thì T đồng ý. Khi đến nhà chị Nguyễn Thị Thùy L thuộc tổ 01, ấp ThT, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước Th và T dừng xe lại đi vòng ra phía sau nhà của chị L phát hiện thấy 3 con gà (Trống) được nhốt ở trong ba cái lồng bằng sắt, không có người trông coi nên T đứng cảnh giới còn Th leo qua hàng rào lưới B40 vào bên trong lén lút mở lồng bắt hai con gà đem xuống nhà anh Phạm Thanh H tại ấp SB, xã ThPh, thị xã BL, tỉnh Bình Phước bán cho anh H hai con gà lấy 1.100.000 đồng.

Chị L phát hiện mất hai con gà nên trình báo Công an xã Thanh Lương và cung cấp hình ảnh cho Công an. Qua trích xuất Camera phát hiện T và Th là đối tượng chiếm đoạt hai con gà của chị L.

Tại Kết luận định giá tài sản số 09/KL - HĐĐGTS ngày 27/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự thị xã Bình Long, kết luận: “Hai con gà trong đó một con gà trống có màu lông đỏ, vàng, đen, xanh cân nặng 2,25kg giá trị 247.000 đồng và một con gà trống có màu lông đỏ, vàng, đen, xanh cân nặng 2,7kg giá trị 297.000 đồng. Tổng cộng 544.000 đồng.

Về vật chứng vụ án: Hai con gà trống có màu lông đỏ, vàng, đen, xanh đã thu hồi trả lại cho chị Nguyễn Thị Thùy L. Một xe mô tô Honda nhãn hiệu Ware RSX, biển số kiểm soát 93F1 – 18246 là tài sản của chị Nguyễn Thị M cho Nguyễn Đình T mượn nhưng Tùng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, chị Minh không biết nên Cơ quan Công an đã trả lại cho chị Nguyễn Thị M.

Về dân sự: Chị Nguyễn Thị Thùy L đã nhận lại hai con gà trống có màu lông đỏ, vàng, đen, xanh. Chị L không yêu cầu bồi thường thêm gì.

Tại bản cáo trạng số: 39/CT - VKS ngày 10/7/2020 của Viện Kiểm sát truy tố Nguyễn Đình T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi và hậu quả, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Đình T mức án từ 08 tháng tù đến 14 tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bình Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo Nguyễn Đình T đã khai nhận vào khoảng 9 giờ 30 phút, ngày 25/02/2020 đã cùng Nguyễn Quang Th lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt hai con Gà trống của chị Nguyễn Thị Thùy L tại tổ 01, ấp ThT, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước; Th là người thực hiện còn T với vai trò giúp sức. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm và quá trình thực hiện tội phạm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Giá trị tài sản bị cáo T chiếm đoạt của chị L theo Kết luận định giá tài sản số 09/KL - HĐĐGTS ngày 27/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Bình Long là 544.000đ (Năm trăm bốn mươi bốn nghìn đồng) tuy nhiên do bị cáo Nguyễn Đình T đã có bốn tiền án về tội trộm cắp tài sản cụ thể như sau: Tại Bản án số 53/2015/HSST Ngày 22/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xử phạt Nguyễn Đình T 9 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; tại Bản án số 78/2015/HSST ngày 27/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xử phạt Nguyễn Đình T 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Ngày 24/7/2017 tại Bản án số 31/2017/HSST của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xử phạt Nguyễn Đình T 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản và Ngày 3/8/2018 tại bản án số 34/2015/HSST của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xử phạt Nguyễn Đình T 01năm tù về tội trộm cắp tài sản, nay tiếp tục thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo Nguyễn Đình T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi sai trái của mình chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét cho được hưởng mức án thấp, hứa chấp hành tốt và không tái phạm.

[3] Bản thân bị cáo T đã có bốn tiền án về tội trộm cắp tài sản lẽ ra bị cáo T phải biết tu chí làm ăn lương thiện thế nhưng vì muốn có tiền để sử dụng ma túy bị cáo đã lựa chọn con đường vi phạm pháp luật để kiếm tiền, biết rõ trộm cắp tài sản của người khác là hành vi trái pháp luật và sẽ bị trừng trị nhưng vẫn thực hiện, thể hiện tính coi thường pháp luật của bị cáo, thời gian chấp hành bốn bản án vẫn chưa đủ răn đe, giáo dục nay cần phải có một mức án tương xứng với hành vi nhằm răn đe đối với bị cáo đồng thời giáo dục, phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng cân nhắc cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại về tài sản, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại theo điêm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, giảm cho một phần hình phạt lẽ ra bị cáo phải chịu.

Đại diện Viện kiểm sát đề xuất mức án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Đối với Nguyễn Quang Th có tham gia trực tiếp trộm cắp tài sản nhưng giá trị tài sản chiếm đoạt 544.000 đồng nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm và đã xử lý hành chính.

[4] Vật chứng vụ án: Hai con gà trống có màu lông đỏ, vàng, đen, xanh đã thu hồi trả lại cho chị Nguyễn Thị Thùy L và Một xe mô tô Honda nhãn hiệu Ware RSX, biển số kiểm soát 93F1 – 18246 là tài sản của chị Nguyễn Thị M cho Nguyễn Đình T mượn nhưng Tùng thực hiện hành vi vi phạm phám luật thì chị Minh không biết nên Cơ quan Công an đã trả lại tài sản cho chị Nguyễn Thị M (Bút lục 87,88).

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thị Thùy L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường thêm gì nên không đặt ra.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo Nguyễn Đình T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1.Về hình phạt: Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điêm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt:

Nguyễn Đình T ( Tùng Gà) 01 (Một) năm tù, thời hạn tính từ ngày chấp hành bản án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường thêm gì nên không đặt ra.

3. Vật chứng của vụ án: Đã xử lý xong.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo Nguyễn Đình T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2020/HSST ngày 04/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:34/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:04/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về