Bản án 34/2018/HSST ngày 15/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 34/2018/HSST NGÀY 15/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15-01-2018, tại Trường THPT huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2017/HSST ngày 22-12-2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2018/QĐXXST-HS, ngày 02-01-2018 đối với bị cáo:

Vì Văn N; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1995 tại xã C, huyện T, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú : Bản C, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 6/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Con ông Vì Văn S ( đã chết ) và bà Vì Thị H, sinh năm: 1965; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự : Không; Tiền án : Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13-10-2017 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan : Anh Vì Văn T; Nơi cư trú : Bản C, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La; Có mặt tại phiên tòa.

* Người phiên dịch cho anh Vì Văn T : Anh Bạc Cầm H. Nơi cư trú : Tiểu khu 16, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 8 giờ 30 phút ngày 13-10-2017 Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu làm nhiệm vụ tại khu vực Bản Nong Vai, xã Co Mạ, huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang Vì Văn N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Vật chứng thu giữ gồm:

- Một gói nilon màu trắng, bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng nghi là Heroin ( Ngân khai là Heroin).

- Một xe máy, loại xe WIN, sơn màu đen không biển kiểm soát, nhãn hiệu DETECH, số khung 127930, số máy 127930, xe đã qua sử dụng.

Hồi 14 giờ 50 phút cùng ngày Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niêm phong cân tịnh số bột màu trắng thu giữ của Vì Văn N, cân tịnh được trọng lượng là: 0,38 gam, rút 0,11 gam ký hiệu N1 gửi giám định chất ma túy, còn 0,27 gam ký hiệu N2 niêm phong nhập kho vật chứng.

Tại Kết luận giám định số: 962/KLMT ngày 16-10-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:" Mẫu gửi giám định ký hiệu N1 là chất ma túy, loại chất Heroin”.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, Vì Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 7 giờ 30 phút ngày 13-10-2017, Vì Văn N điều khiển xe máy không biển kiểm soát, nhãn hiệu DETECH đi từ nhà ở bản C, xã C, huyện T ra ngã ba bản N chơi. Khi đi gần đến ngã ba bản N thì gặp hỏi mua của một người đàn ông dân tộc Mông  ( N không quen biết ) một gói Heroin với giá 200.000đ. Sau khi mua được ma túy N mở ra thì thấy được ít Heroin nên đã đi bộ vào rừng để tìm người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho N thì gặp người đàn ông này đang người với 2 thanh niên khác ( N không quen biết ). N gặp người đàn ông này và nói sao được ít thế, Người đàn ông không nói gì. Sau đó N đi xe máychuẩn bị về nhà thì bị hai người thanh niên lao vào đánh. Khi hai người đàn ông đang đánh N thì có tổ công tác Đồn Công an Co Mạ đến hai người đàn ông bỏ chạy, còn N do sợ bị bắt nên đã ném gói Heroin xuống đường nhưng vẫn bị bắtgiữ và thu giữ vật chứng như đã nêu trên, Sau đó Tổ công tác đã đưa Vì Văn N về trụ sở UBND xã Co Mạ, huyện Thuận Châu để lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang và đã được dẫn giải về Công an huyện Thuận Châu xử lý theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số: 04/KSĐT ngày 21-12-2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố Vì Văn N về tội Tàng trữ tráiphép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với Vì Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Vì Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng khoản 1 Điều 194,điểm p khoản 1, 2 Điều 46 BLHS năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20-6-2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị xử phạt bị cáo Vì Văn N mức án từ 14 đến 20 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13-10-2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 41 BLHS năm 1999 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tuyên tịch thu tiêu hủy: Bột cục màu trắng là chất ma túy, loại chất Heroin có trọng lượng 0,27 gam được niêm phong trong phong bì thư.

Đề nghị tuyên trả cho anh Vì Văn T : Một xe máy, loại xe WIN, sơn màu đen không biển kiểm soát, nhãn hiệu DETECH, số khung 127930, số máy 127930, xe đã qua sử dụng.

Về án phí: Gia đình bị cáo Vì Văn N có giấy chứng nhận hộ nghèo được UBND xã Co Mạ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La cấp ngày 24-10-2017. Do vậy Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo Vì Văn N: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, bị cáo rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi tàng trữ trái phép là tàng trữ trái phép 0,38 gam chất ma túy, loại chất Heroin nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân của bị cáo là vi phạm pháp luật. Bởi, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 như quan điểm truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu.

Tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Tại thời điểm bị cáo phạm tội tuy Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật nhưng mức hình phạt đối với tội Tàng trữ trái phép ma túy thấp hơn, có lợi hơn cho bị cáo so với Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………………………….

c)  Heroin,  cocain,  Methamphetamine,  Amphetamine,  MDMA  có  khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Theo Nghị quyết 41/2017/QH13 ngày 20-6-2017 của Quốc hội Việt Nam; Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 đối với bị cáo để xét xử theo hướng có lợi cho bị cáo, tạo cơ hội cho bị cáo sớm về hòa nhập với gia đình và xã hội.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã ăn năn hốicải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng tình tiếtgiảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Bị cáo tuổi đời còn trẻ, sống ở vùng sâu, vùng xa trình độ nhận thức pháp luật có phần hạn chế là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự 1999.

[6]. Nhân thân bị cáo là người nghiện ma túy, biết rõ tác hại của ma tuý là Nhà nước cấm nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

[7]. Bị cáo Vì Văn N đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 BLTTHS năm 2015.

[8]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Vì Văn N còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 194 BLHS năm 1999. Xét thấy bị cáo đều là những người nghiện ma túy. không có tài sản riêng, là hộ nghèo  không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[9] Đối với người đàn ông dân tộc Mông  là người Vì Văn N khai đã bán cho N một lượng Heroin với giá 200.000đ  do Ngân không biết tên và địa chỉ ở đâu do vậy không có căn cứ để điều tra xử lý.

[10] Đối với hai người đàn ông đã đánh N do N không biết tên và địa chỉ dovậy không có căn cứ để điều tra xử lý.

[11] Về vật chứng: Đối với bột cục màu trắng là chất ma túy, loại chất Heroin có trọng lượng 0,27 gam được niêm phong trong phong bì thư là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên áp dụng Điều 41 BLHS và Điều 106 BLTTHS năm2015 để tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy loại xe WIN, nhãn hiệu DETECH không biển kiểm soát thu giữ của Vì Văn N. Quá trình điều tra  và tại phiên tòa đã xác định được chiếc xe trên là của Vì Văn T ( là anh trai của bị cáo N ), trú tại: bản C, xã C, việc N sử dụng chiếc xe máy trên tàng trữ  ma túy anh T không biết, tại phiên tòa anh T có đơn xin lại xe do vậy cần trả lại chiếc xe máy trên cho anh T là có căn cứ, đúng pháp luật.

[12] Về án phí : Gia đình bị cáo Vì Văn N có giấy chứng nhận hộ cận nghèo được UBND xã Co Mạ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xác nhận. Do vậy Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vì Văn N theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[13] Bị cáo Vì Văn N có quyền kháng cáo toàn bộ bản án, anh Vì Văn T có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Vì Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, 2 Điều 46  BLHS năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20-6-2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Vì Văn N 15 ( mười lăm ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 13-10-2017 ( là ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ).

3. Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 41 BLHS năm 1999 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy : Bột cục màu trắng là chất ma túy, loại chất Heroin có trọng lượng 0,27 gam (Không phẩy hai mươi bảy gam) được niêm phong trong phong bì thư.

+ Tuyên trả cho anh Vì Văn Toạn:  Một xe máy,  loại xe WIN,  sơn màu đen không biển kiểm soát, nhãn hiệu DETECH, số khung 127930, số máy 127930, xe đã qua sử dụng.

4. Án phí:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án : Miễn toàn bộán phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vì Văn N.

5. Quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ( được quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi đã được tuyên) trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

399
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2018/HSST ngày 15/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:34/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về