Bản án 34/2017/HSST ngày 28/02/2017 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 34/2017/HSST NGÀY 28/02/2017 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2017 tại trụ sở tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 27/HSST/2017 ngày 10/02/2017 đối với bị cáo: NGUYỄN MINH T, sinh năm 1971; ĐKHKTT: phường T, quận C, thành phố Hà Néi; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hoá: 02/10; Con ông: Nguyễn Văn M (đã chết); Con bà: Lê Thị M. Vợ: Nguyễn Thị H, có 03 con (con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2004). Danh chỉ bản số 000346 lập ngày 16/10/2016 của Công an thành phố Hà Nội, bị cáo có 01 tiền sự: gày 24/11/1989, UBND TP Hà Nội ra lệnh tập trung giáo dục cải vì đã có những hành động có phương hại đến trật tự an ninh xã hội thời hạn 3 năm; Tạm giữ từ ngày 20/9/2016 đến ngày 16/12/2016. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn: cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bị hại: Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1985. HKTT: Xã T, huyện K, tỉnh H (vắng mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1972.

HKTT: phường T, quận C, thành phố Hà Nội (có măt).

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Minh T bị Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 13h30’ ngày 20/9/2016, Nguyễn Minh T đi xe đạp điện từ phường T, quận C, thành phố Hà Nội. Khi đó anh Nguyễn Văn M điều khiển xe ô tô Fortuner BKS 30E-196.70 đi trên đường N hướng N đi ngang qua đầu xe của T làm T giật mình. T tăng ga xe đạp điện đuổi theo ô tô của anh M đến đường N thì T vượt lên chặn đầu xe ô tô của anh M. T hỏi “mày lái xe lâu chưa” và dùng tay đấm 01 cái vào mặt anh M, yêu cầu anh M đi xe vào lề đường. Anh M xuống xe thì bị T tóm cổ áo dùng tay đánh liên tiếp vào mặt. Anh M bỏ chạy vào trong quán internet, chạy đến quầy thu ngân của quán thì bị T đuổi kịp.

T dùng tay đánh vào mặt anh M và dùng dây chuyền kim loại màu trắng (dài khoảng 50 cm có gắn 01 móc nhựa dài khoảng 5 cm) của T vụt vào đầu và gáy anh M. Anh M quỳ xuống xin nhưng T vẫn dùng tay đánh anh M và yêu cầu anh M phải đưa T 700.000 đồng. Anh M xin T nói chỉ còn 500.000 đồng. T không đồng ý và dùng tay đánh anh M và yêu cầu anh M phải đưa T 700.000 đồng (gồm 1 tờ 500.000 đồng và 2 tờ 100.000 đồng). T cầm tiền và cho anh M lấy xe ô tô đi về. Sau đó, anh M đến công an phường T trình báo. Hồi 21h cùng ngày, Nguyễn Minh T đến công an phường T đầu thú khai nhận toàn bộ sự việc như trên và nộp lại số tiền 700.000 đồng đã chiếm đoạt. Cơ quan Công an đã tạm giữ 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu NINJA màu đen, không biển kiểm soát; 01 dây chuyển kim loại màu trắng có gắn 01 móc nhựa của Nguyễn Minh T.

Tại Cơ quan điều tra, T đã khai nhận hành vi nêu trên. Lời khai của T phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu có trong hồ sơ. T khai: trước khi xảy ra va chạm với anh M, T có uống khá nhiều rượu ở quán phường T, quận C, thành phố Hà Nội nên không kiểm soát được hành vi của mình. T khai dây kim loại dùng để đánh anh Mạnh là dây chuyền mỹ ký không có giá trị.

Anh Nguyễn Văn M bị thương nhẹ, anh M từ chối giám định thương tích. Gia đình T đã bồi thường thương tích theo yêu cầu của anh M. Cơ quan điều tra đã trao trả cho anh M số tiền 700.000 đồng. Anh M không có yêu cầu bồi thường gì khác.

Đối với 01 xe đạp điện nhãn hiệu NINJA màu đen thu giữ của Nguyễn Minh T xác định không liên quan đến vụ án. Chiếc xe đạp điện trên là tài sản chung của Nguyễn Minh T và chị Nguyễn Thị H (là vợ của T). Ngày 7/12/2016 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Cầu Giấy đã trao trả cho chị Nguyễn Thị H chiếc xe đạp điện trên. Khi nhận lại tài sản, chị H không có yêu cầu gì.

Cáo trạng số 14/CT - VKSCG ngày 09/01/2017 của VKSND quận Cầu Giấy truy tố Nguyễn Minh T về tội "cướp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo Nguyễn Minh T khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận hành vi do mình thực hiện là phạm tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy giữ nguyên Cáo trạng truy tố Nguyễn Minh T về tội "cướp tài sản". Áp dụng Khoản 1 điều 133, điểm p,b, o khoản 1 điều 46, khoản 2 điều 46, điều 47, điều 33 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 đến 24 tháng tù về tội cướp tài sản. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Dân sự: không giải quyết.

Tang vật: Áp dụng điều 41,76 tịch thu tịch thu tiêu hủy 01 dây truyền bằng kim loại màu trắng có gắn 01 móc nhựa.

Chị H khai đã nhận được xe đạp điện và không yêu cầu giải quyết về dân sự.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, kết quả phần tranh luận. Trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo;

XÉT THẤY

Lời khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Minh T tại phiên tòa phù hợp với nội dung cáo trạng của VKSND quận Cầu Giấy đã truy tố, phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng đã thu giữ được và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13h47’ ngày 20/9/2016, Nguyễn Minh T đã có hành vi đánh anh Nguyễn Văn M bắt anh M phải đưa cho T số tiền 700.000 đồng tại đường N, phường T, quận C, thành phố Hà Nội.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự như đề nghị truy tố của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy là có căn cứ pháp luật, đúng người đúng tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội và gây bất bình trong nhân dân. Vì vậy cần xét xử nghiêm và áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới có đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét thái độ khai báo thành khẩn, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại, bị cáo tự thú và gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là những tình tiết để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 điều 46 nên áp dụng thêm điều 47 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng dưới khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo. Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có điều kiện thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại Khoản 5 Điều 133 Bộ luật hình sự.

Về dân sự: Người bị hại đã nhận tiền bồi thường và không có yêu cầu về dân sự. Toà không xét.

Về vật chứng: 01 dây truyền bằng kim loại màu trắng có gắn 01 móc nhựa đã thu giữ của bị cáo liên quan đến hành vi phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội cướp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 133, điểm p, b, o khoản 1 Điều 46, khoản 2 điều 46, điều 47, điều 33 Bộ luật hình sự; Điều 99, Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Xử phạt bị cáo 12 (mười hai) tháng tù về tội cướp tài sản, thời gian tính từ ngày bắt đi thi hành án (bị cáo được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 20/9/2016 đến ngày 16/12/2016).

Về trách nhiệm dân sự: Không giải quyết.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 dây truyền bằng kim loại màu trắng có gắn 01 móc nhựa (theo biên bản giao nhận vật chứng số 75 GN/THA-CA ngày 24/01/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy).

Về án phí: Bị cáo T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

368
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2017/HSST ngày 28/02/2017 về tội cướp tài sản

Số hiệu:34/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về