Bản án 34/2017/HSST ngày 22/08/2017 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 34/2017/HSST NGÀY 22/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 8 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 25/2017/HSST ngày 19 tháng 7 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Trần Công H1; sinh ngày 05 tháng 7 năm 1974; tại: Huyện T2, tỉnh Lạng Sơn.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 10, ngõ 2, đường H2, khu 1, thị trấn T1, huyện T2, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; con ông: Trần Văn H3 và bà Nguyễn Thị H4; vợ: Lương Thị T3 - sinh năm 1982; con: Có 01 con sinh năm 2003.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày 11/12/2016 cho đến nay; có mặt.

2. Bế Trọng T; sinh ngày 01 tháng 3 năm 1981; tại: Huyện V, tỉnh Lạng Sơn.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu 2, thị trấn N1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn.

Chỗ ở: Thôn N2, xã Đ, huyện T2, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; con ông: Bế Văn B và bà Nguyễn Thị H5; vợ: Hoàng Thị N3 - sinh năm 1982; con: Có 01 con sinh năm 2006.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày 11/12/2016 cho đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Bùi Việt D (Tên gọi khác Bùi Quang T9), sinh năm 1977;

Trú tại: Phố G1, thị trấn G2, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; có mặt.

NHẬN THẤY

Các bị cáo Trần Công H1, Bế Trọng T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 10 giờ 00 phút, ngày 11/12/2016 tại khu vực thôn Nà Nghiều, xã Đại Đồng, tổ công tác Công an huyện Tràng Định bắt quả tang Trần Công H1 có hành vi giúp sức Lương Thị T4 (Sinh năm 1964, trú tại Khu 1, thị trấn T1) bán 03 gói ma túy Heroine cho Đinh Văn Thọ có tổng trọng lượng 0,627 gam, thu giữ 200.000 đồng; 01 chiếc điện thoại và 01 chiếc mô tô biển kiểm soát 20F1-0603. Khám xét chỗ ở của H1 thu giữ được 01 gói ma túy Heroine có tổng trọng lượng 0,311 gam và 01 cân điện tử. Theo lời khai của H1, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T2 tiến hành khám xét chỗ ở của Lương Thị T4 thu giữ được tổng trọng lượng 0,987 gam chất ma túy Methamphetamine. Trong quá trình khám xét có Bế Trọng T, trú tại Khu 2, thị trấn N1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn có mặt tại đó, theo lời khai của T, tiến hành khám xét nơi ở trọ tại Thôn N2, xã Đ, huyện T2, tỉnh Lạng Sơn thu giữ được tổng trọng lượng 1,251 gam chất ma túy Methamphetamine; 1,90 gam chất ma túy Ketamine và 0,256 gam chất tinh thể màu trắng, không tìm thấy chất ma túy thường gặp. T khai nhận toàn bộ số ma túy Methamphetamine bị thu giữ là do Lương Thị T4 đem cho sử dụng, còn chất ma túy Ketamine là do nhặt được; thu giữ 8.000.000đ và 01 chiếc cân điện tử.

Tại bản Kết luận giám định số: 51/KL-PC-54, ngày 14/12/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

- Kết quả thu giữ của Trần Công H1:

+ 03 gói chất bột màu trắng khi bắt quả tang đều là chất ma túy Heroine có trọng lượng 0,627 gam.

+ 01 gói chất bột màu trắng khi khám xét nơi ở là chất ma túy Heroine có trọng lượng 0,311 gam.

- Kết quả thu giữ của Lương Thị T4:

+ Chất tinh thể màu trắng có trong 02 túi ni lon là chất ma túy Methamphetamine có trọng lượng 0,486 gam.

+ Chất tinh thể màu trắng có trong 02 gói giấy bạc là chất ma túy Methamphetamine có tổng trọng lượng 0,411 gam.

+ 01 viên nén màu hồng là chất ma túy Methamphetamine có trọng lượng 0,09 gam.

- Kết quả thu giữ khi khám xét nơi ở của Bế Trọng T:

+ Chất tinh thể đựng trong 03 túi ni lon đều là chất ma túy Methamphetamine có tổng trọng lượng 0,702 gam.

+ Chất bột dính 03 túi ni lon đều là chất ma túy Methamphetamine có trọng lượng 0,065 gam.

+ Chất tinh thể màu trắng có trong 01 túi ni lon có trọng lượng 0,256 gam (Không tìm thấy chất ma túy thường gặp).

+ Chất bột màu trắng dạng đục có trong 01 túi ni lon là chất ma túy Methamphetamine có trọng lượng 0,313 gam.

+ Chất bột màu hồng đựng trong 01 gói giấy là chất ma túy Methamphetamine có trọng lượng 0,171 gam.

+ Chất tinh thể màu trắng đục có trong 01 túi ni lon là chất ma túy Ketamine có trọng lượng 1,90 gam.

Tại cơ quan điều tra, Bế Trọng T khai nhận: Bản thân lên thị trấn T1 làm ăn từ tháng 7 năm 2016 và có quan hệ tình cảm với Hà Thị Phương T7 (Là con gái Lương Thị T4), hai người sống chung như vợ chồng, T thường xuyên ngủ tại nhà Lương Thị T4, do bản thân nghiện chất ma túy nên thỉnh thoảng được T4 đem chất ma túy cho sử dụng nên đã mang số ma túy về chỗ ở trọ tại thôn N2, xã Đ để sử dụng dần nhưng chưa sử dụng hết. Còn gói ma túy Ketamin bị thu giữ là do nhặt được, còn thời gian nhặt được ở đâu thì T không nhớ, khi dùng thử thì thấy không dùng được nên gói lại và cất đi.

Đối với Lương Thị T4 trong quá trình tạm giam do mắc bệnh HIV giai đoạn III nên sức khỏe yếu nên đã được Lương Thị T3 (Sinh năm 1982 là cháu ruột) và Hà Thị Phương T7 (Con gái) bảo lĩnh cho tại ngoại để chữa bệnh nhưng hiện nay đã trốn khỏi địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tràng Định đã ra Quyết định truy nã đối với Lương Thị T4 và ra quyết định tách vụ án, bị can ra để xử lý sau.

Lương Thị T4 khai về nguồn gốc 03 gói ma túy khi bắt quả tang là do Đường Văn Duy để lại, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tràng Định đã tiến hành lấy lời khai và đối chất nhưng Duy không thừa nhận đã để lại ma túy tại nhà Lương Thị T4, ngoài ra không có tài liệu nào khác để chứng minh nên không có cơ sở để xử lý trong vụ án này. Hiện nay Đường Văn Duy đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tràng Định bắt và khởi tố trong vụ án Mua bán trái phép chất ma túy khác.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20F1-0603 mà Trần Công H1 sử dụng trong việc mua bán trái phép chất ma túy là của Bùi Việt D (Sinh năm 1977, trú tại Phố G1, thị trấn G2, huyện P, tỉnh T3), khi T4 mang xe cho Trần Công H1 đi thì D không biết. Theo lời khai của D vào khoảng 08 giờ ngày 10/12/2016 đã cùng bạn là Đỗ Trọng N3 (Trú tại tỉnh Thái Nguyên) đến nhà Lương Thị T4 chơi; khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, khi ăn cơm xong được Lương Thị T4 cho sử dụng ma túy đá và ngủ tại đó, còn chị T4 lấy xe của anh cho bị cáo H1 đi bán ma túy anh không biết. Đến sáng ngày 11/12/2016 khi khám xét anh có mặt ở đó và được mời lên làm việc. Còn việc sử dụng ma túy tại nhà Lương Thị T4 đã được Công an huyện Tràng Định ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức Cảnh cáo.

Đối với Lương Thị T3 và Hà Thị Phương T7 là người đứng ra bảo lĩnh cho bị can Lương Thị T4 được tại ngoại đã không thực hiện tốt nghĩa vụ như đã cam đoan để bị can T4 trốn khỏi địa phương nên Công an huyện Tràng Định đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền với mức phạt 1.500.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 26/KSĐT-MT ngày 19 tháng 7 năm 2017, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Trần Công H1 ra trước Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn để xét xử về các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Bế Trọng T ra trước Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân giống như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, không oan. Các bị cáo không có ý kiến gì về phần tội danh, chỉ xin xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình và xã hội.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa: Giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố, sau khi đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, xem xét nguyên nhân, điều kiện hoàn cảnh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

Về tội danh, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:

- Bị cáo Trần công H1 phạm các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Bế Trọng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33, Điều 50 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Công H1, xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy;

- Áp dụng Điều 50 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt bị cáo H1 phải chấp hành từ 05 đến 06 năm tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Bế Trọng T; xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 41 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn của bị cáo T.

- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn của bị cáo H1.

Trả cho anh Bùi Việt D chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20F1-0603.

Trả cho bị cáo Trần công H1 chiếc điện thoại di động hiệu Masstel đã qua sử dụng.

Trả 03 chiếc điện thoại cho bị cáo T gồm: 01 chiếc hiệu Mi màn hình cảm ứng; 01 điện thoại nokia màu đen; 01 điện thoại nokia màu đỏ (Máy đều đã qua sử dụng)

Tịch thu tiêu hủy 02 chiếc cân điện tử thu của bị cáo H1 và bị cáo T.

- Trả cho bị cáo T 8.000.000đ.

- Trả cho bị cáo H1 200.000đ.

Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Công H1 thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mua bán trái phép chất ma túy; bị cáo Bế Trọng T thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay, phù hợp với biên bản bắt, lời khai của những người mua, bán ma túy và các tài liệu khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Bế Trọng T, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự; bị cáo Trần Công H1 phạm các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Công H1, Bế Trọng T gây ra là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an cho xã hội. Việc tàng trữ, mua bán trái phép ma túy cũng như tệ nạn ma túy nói chung là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Chúng ta đều biết, ma túy là loại độc dược gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, đây là loại độc dược gây hại cho sức khỏe của con người. Tác hại của ma túy là khôn lường nên các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên tuyên truyền tác hại của ma túy, cảnh báo mọi người tránh xa ma túy. Đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy đang là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Chính vì vậy đối với những hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào đều vi phạm pháp luật, đều phải trừng trị nghiêm khắc trước pháp luật. Tuy nhiên để cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo Hội đồng xét xử cần xem xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp.

Đối với bị cáo Bế Trọng T là một người đã trưởng thành nhưng không chịu tu dưỡng làm ăn mà sớm lao vào tệ nạn xã hội. Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cất dấu ma túy trong phòng trọ nhằm phục vụ lợi ích bất hợp pháp của bản thân. Điều này càng thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo, hành vi bị cáo gây ra cần phải bị xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo T ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định, mới có thể giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa chung.

Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra bị cáo T đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải; bản thân chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu. Vì vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Đối với bị cáo Trần Công H1: Bị cáo đã có gia đình, gia đình con còn nhỏ còn nhiều khó khăn, bị cáo lại đua đòi theo bạn bè dẫn đến nghiện chất ma túy, để có tiền mua ma túy sử dụng cho bản thân bị cáo Trần Công H1 sang nhà Lương Thị T4 mua 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng, H1 đã sử dụng một ít, phần còn lại, được gói và tàng trữ tại bàn trang điểm trong phòng ngủ để sử dụng dần cho bản thân. Ngoài ra bị cáo còn nhận lời bán hộ ma túy cho bà Lương Thị T4 03 gói nhỏ thì bị bắt. Hành vi của bị cáo gây bức xúc trong quần chúng nhân dân ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Hành vi bị cáo gây ra cần phải bị xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định, mới có thể giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra bị cáo Trần Công H1, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Hình phạt bổ sung: Căn cứ vào biên bản xác minh ngày 29/3/2017 của Công an huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn tại Ủy ban nhân dân thị trấn T1, huyện T2, tỉnh Lạng Sơn và ngày 15/12/2016 tại Ủy ban nhân dân thị trấn N1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn nhận thấy các bị cáo không có tài sản gì có giá trị, các bị cáo không có nghề nghiệp. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

(Tại mục 3 tiểu mục 3.1 phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII các tội phạm ma túy của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người...) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này và tại tiểu mục 3.3, mục 3, phần II Thông tư số: 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP, 24/12/2007 của Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Mua bán trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi sau đây:

a) .....

g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.

Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy được hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.3 này đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy). Tuy nhiên để hướng có lợi cho các bị cáo theo bộ luật hình sự năm 2015 quy định tại khoản 1 Điều 249 tội tàng trữ trái phép chất ma túy có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Do đó khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét cân nhắc mức hình phạt theo hướng có lợi cho các bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 41 của Bộ luật hình sự; Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên còn nguyên vẹn của bị cáo T là chất Heroin.

- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn của bị cáo H1 là chất Heroin.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20F1-0603 của anh Bùi Việt D mà bị cáo Trần Công H1 sử dụng trong việc mua bán trái phép chất ma túy, anh D chứng minh được việc bị cáo H1 sử dụng xe của anh D đi mua bán ma túy anh D không biết. Do vậy, cần trả lại chiếc mô tô cho anh D.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Masstel của bị cáo H1 và 03 chiếc điện thoại của bị cáo T, xét thấy không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho các bị cáo.

Đối với 02 chiếc cân điện tử thu của bị cáo H1 và bị cáo T, xét thấy không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền thu của bị cáo T 8.000.000đ và thu của bị cáo H1 200.000đ, không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho các bị cáo.

Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về hành vi phạm tội, về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện về mức hình phạt và xử lý tang vật vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố:

- Bị cáo Trần Công H1 phạm các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Bị cáo Bế Trọng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 50 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Công H1 (cả 02 tội). Xử phạt bị cáo Trần Công H1 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt cả 02 tội bị cáo Trần Công H1 phải chấp hành 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 11/12/2016.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Bế Trọng T. Xử phạt bị cáo Bế Trọng T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ bị cáo bị bắt tạm giam ngày 11/12/2016.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm C khoản 1 khoản 2 Điều 41 của Bộ luật hình sự; điểm a, b, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn của bị cáo Bế Trọng T là chất ma túy.

- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn của bị cáo Trần Công H1 là chất ma túy.

- Trả cho anh Bùi Việt D chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20F1-0603.

- Trả cho bị cáo Trần công H1 chiếc điện thoại di động hiệu Masstel đã qua sử dụng.

- Trả cho bị cáo Bế Trọng T 03 chiếc điện thoại gồm: 01 chiếc hiệu Mi màn hình cảm ứng; 01 điện thoại nokia màu đen; 01 điện thoại nokia màu đỏ (Máy đều đã qua sử dụng).

- Tịch thu tiêu hủy 02 chiếc cân điện tử thu của bị cáo Trần Công H1 và bị cáo Bế Trọng T.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tràng Định và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tràng Định ngày 24 tháng 7 năm 2017).

- Trả cho bị cáo Bế Trọng T 8.000.000đ (Tám triệu đồng).

- Trả cho bị cáo Trần Công H1 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

(Toàn bộ số tiền trên được gửi tại tài khoản của số 3949.0.1054413.000.00, của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tràng Định theo ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử ngày 25 tháng 7 năm 2017 tại Kho bạc Nhà nước huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Trần Công H1, Bế Trọng T mỗi bị cáo phải chịu 200.000VNĐ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

331
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2017/HSST ngày 22/08/2017 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về