Bản án 34/2017/HC-ST ngày 12/07/2017 về khiếu kiện quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 34/2017/HC-ST NGÀY 12/07/2017 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ

Ngày 12 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 44/2017/TLST-HC ngày 20/4/2017 về “Khiếu kiện quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2017/QĐXXST-HC ngày 28/6/2017 giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Bà Phạm Thị Q, sinh năm 1960 (vắng mặt). Địa chỉ: Tổ M, khu phố S, thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1975 (văn bản ủy quyền ngày 18/5/2017) (có mặt).

Địa chỉ: Số 124C, đường H, phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện P.

Địa chỉ: Số 04, đường B, khu phố H, thị trấn D, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Đinh Khoa T, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện, người khởi kiện bà Phạm Thị Q và người đại diện là ông Nguyễn Văn H trình bày:

Ngày 27/6/2014, Ủy ban nhân dân huyện P ban hành Quyết định 3441/QĐ-UBND về việc thu hồi của bà Phạm Thị Q diện tích 1.355,46 m2 đất trồng cây lâu năm ấp 6, thị trấn An Thới, huyện Phú Quốc tỉnh Kiên Giang để thực hiện dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem do Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên M đầu tư tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

Ngày 06/3/2017 Ủy ban nhân dân huyện P ban hành Quyết định 2211/QĐ-UBND về việc bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem, tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Gang.

Theo Quyết định 2211/QĐ-UBND bà Phạm Thị Q được hỗ trợ về đất đai số tiền 528.629.400 đồng (năm trăm hai mươi tám triệu sáu trăm hai mươi chín ngàn bốn trăm đồng).

Bà Q xác định Quyết định 2211/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân huyện P đã gây thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp của bà, cụ thể như sau:

Đất của bà Q có nguồn gốc do gia đình bà khai phá, sử dụng từ năm 1985, không có tranh chấp, nhưng Ủy ban nhân dân huyện P chỉ hỗ trợ mà không bồi thường là không đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 13 của Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Đất bà Q bị thu hồi năm 2014 đến năm 2017 Ủy ban nhân dân huyện P mới ban hành Quyết định hỗ trợ, nhưng lại áp giá theo bảng giá đất quy định tại Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Bảng quy định giá các loại đất năm 2014 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang là không đúng, vì Quyết định này không còn hiệu lực.

Tại thời điểm năm 2017 Ủy ban nhân dân huyện P phải áp dụng giá đất quy định tại Quyết định 35/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Quy định Bảng giá đất đối với các loại đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang và tính thêm hệ số điều chỉnh quy định tại Quyết định 04/2016/QĐ-UBND ngày 15/01/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc quy định hệ số điều chỉnh giá đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang để hỗ trợ cho bà Q mới phù hợp.

Quyết định 2211/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P không hỗ trợ ổn định đời sống cho gia đình bà Q theo quy định tại Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Vì vậy bà Q yêu cầu Tòa án hủy Quyết định 2211/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P. Buộc Ủy ban nhân dân huyện P ban hành Quyết định mới bồi thường, hỗ trợ cho bà theo đúng quy định của pháp luật.

Người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện P đã nhận Thông báo thụ lý vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử... nhưng không có văn bản ý kiến đối với yêu cầu của người khởi kiện, không cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc ban hành quyết định bị kiện. Đại diện của người bị kiện là ông Đinh Khoa T, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện P có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến của người bị kiện.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Ông Nguyễn Văn H xác định: Quyết định 2211/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 được Ủy ban nhân dân huyện P ban hành căn cứ theo Quyết định 1950/QĐ- UBND ngày 20/02/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P về việc phê duyệt phương án bổ sung và thu hồi kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp sinh thái Bãi Khem tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang. Nhưng Quyết định 1950/QĐ-UBND lại áp dụng Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang để tính giá hỗ trợ cho bà Q là không đúng.

Đất bà Q bị thu hồi đủ điều kiện để đền bù nhưng Ủy ban nhân dân huyện P chỉ hỗ trợ là không đúng quy định tại Điều 13 của Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.

Ông H yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Quyết định 2211/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P. Buộc Ủy ban nhân dân huyện P ban hành Quyết định mới bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất cho bà Q.

Giá đất bồi thường phải áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 74 của Luật đất đai năm 2013. Giá đất hỗ trợ phải áp dụng theo Quyết định 35/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc Ban hành Quy định bảng giá đất đối với các loại đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang nhân với hệ số điều chỉnh theo Quyết định 04/2016/QĐ-UBND ngày 15/01/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc Quy định hệ số điều chỉnh giá đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang và áp dụng Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang để hỗ trợ ổn định đời sống cho gia đình bà Q.

Đối với số tiền hỗ trợ theo Quyết định 2211/QĐ-UBND bà Q đã nhận nên bà sẽ tự nguyện khấu trừ khi có Quyết định bồi thường mới.

Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân nhân, Thư ký Tòa án và việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng:

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Người khởi kiện, người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.

Đối với người bị kiện: Trong quá trình giải quyết vụ án, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện P có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng theo quy định tại Điều 158 Luật tố tụng hành chính. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, người bị kiện chưa chấp hành về nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh trong tố tụng hành chính theo quy định tại Điều 78 Luật tố tụng hành chính. Mặc dù đã nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án và Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhưng người bị kiện không có ý kiến đối với Quyết định hành chính bị kiện. Việc người bị kiện không tham gia trong suốt quá trình tố tụng gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ giải quyết vụn án.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu của người khởi kiện, buộc Ủy ban nhân dân huyện P ra quyết định bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho bà Q. Giữ nguyên nội dung Quyết định 2211/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P vì bà Q đã nhận số tiền bồi thường ghi trong Quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ kiện được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Quyết định 2211/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P về việc bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án khu phức hợp sinh thái Bãi Khem là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang theo quy định tại Điều 30, Điều 32 của Luật tố tụng hành chính.

Đại diện người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện P có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 158 của Luật tố tụng hành chính để xét xử vắng mặt người bị kiện.

 [2] Về nội dung:

Ngày 27/6/2014 Ủy ban nhân dân huyện P ban hành Quyết định 3441/QĐ-UBND thu hồi của bà Phạm Thị Q 1.355,46 m2 đất trồng cây lâu năm tại ấp S, thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang để thực hiện dự án khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem.

Ngày 06/3/2017, Ủy ban nhân dân huyện P ban hành Quyết định 2211/QĐ-UBND hỗ trợ diện tích đất 1.355,46 m2 đất cho bà Q.

Quyết định 2211/QĐ-UBND ban hành căn cứ vào Quyết định 1950/QĐ-UBND ngày 20/02/2017 của UBND huyện P về việc phê duyệt phương án bổ sung và thu hồi kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

 [3] Quyết định 1950/QĐ-UBND ngày 20/02/2017 do Ủy ban nhân dân huyện P ban hành đúng thẩm quyền được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 69 của Luật Đất đai năm 2013.

Về nội dung của Quyết định 1950/QĐ-UBND: Ủy ban nhân dân huyện P áp dụng Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành là Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định 31/2008/QĐ-UBND ngày 20/10/2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Bảng quy định đơn giá bồi thường cây trồng, hoa màu trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; Quyết định 35/2012/QĐ-UBND ngày 30/11/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Bảng quy định đơn giá xây dựng mới nhà ở, công trình xây dựng và vật kiến trúc; Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Bảng quy định giá các loại đất năm 2014 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Trong các văn bản nêu trên, tại thời điểm tháng 02 năm 2017 Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Quyết định 35/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc Quy định Bảng giá đất đối với các loại đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Đối với vấn đề bồi thường giá trị quyền sử dụng đất khi thu hồi đất, theo quy định tại khoản 1 Điều 74 của Luật Đất đai 2013 thì: “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của luật này thì được bồi thường”. Tại điểm a khoản 1 Điều 83 của Luật Đất đai 2013 quy định: “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường theo quy định của luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ”. Như vậy điều kiện để được Nhà nước xem xét hỗ trợ khi thu hồi đất là diện tích đất bị thu hồi phải đủ điều kiện để bồi thường.

Bà Q đã được Ủy ban nhân dân huyện P hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm khi bị thu hồi đất nông nghiệp theo khoản 1 Điều 14 của Quyết định 22/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, cụ thể: “Hỗ trợ bằng tiền bằng 03 lần giá đất nông nghiệp cùng loại theo bảng giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định” , xem như Ủy ban nhân dân huyện P thừa nhận bà Q đủ điều kiện được bồi thường đối với diện tích đất bị thu hồi. Nhưng Ủy ban nhân dân huyện P không bồi thường giá trị quyền sử dụng đất khi thu hồi đất của bà Q là trái quy định của pháp luật về đất đai.

Trong trường hợp này Ủy ban nhân dân huyện P phải xây dựng phương án đền bù khi thu hồi đất dựa trên cơ sở pháp luật được quy định tại khoản 2 Điều 74, khoản 3, khoản 4 Điều 114 của Luật Đất đai 2013; khoản 1 Điều 14 của Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang: “Bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm thu hồi đất”, “Hỗ trợ bằng tiền bằng 03 lần giá đất nông nghiệp cùng loại theo bảng giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định nhân với hệ số điều chỉnh (nếu có) đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi” và áp dụng các chính sách hỗ trợ khác khi thu hồi đất cho bà Q (nếu có) theo Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang.

Với những sai sót này cần thiết phải hủy Quyết định 2211/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân P và kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện P phải lập phương án bồi thường, hỗ trợ và ra quyết định bồi thường, hỗ trợ cho bà Q theo đúng quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn. Trường hợp chậm bồi thường còn phải thanh toán thêm cho bà Q một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 93 của Luật Đất đai năm 2013.

 [4] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc chấp nhận một phần yêu cầu của người khởi kiện, không cần thiết phải hủy Quyết định 2211/QĐ- UBND vì lý do bà Q đã nhận một phần tiền đền bù, và buộc Ủy ban nhân dân huyện P ra quyết định bồi thường bổ sung là không phù hợp.

Bởi lẽ Quyết định 2211/QĐ-UBND được ban hành căn cứ vào Quyết định 1950/QĐ-UBND ngày 20/02/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P nhưng Quyết định 1950/QĐ-UBND lại áp dụng văn bản pháp luật không còn hiệu lực thi hành. Không xác định giá đất cụ thể theo quy định tại khoản 2 Điều 74 của Luật Đất đai 2013.

Nếu ban hành quyết định bồi thường bổ sung, Ủy ban nhân dân huyện P lại căn cứ vào Quyết định 1950/QĐ-UBND để ban hành sẽ tiếp tục gây thiệt hại cho bà Q.

 [5] Từ những nhận định trên, sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử nghị nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Q và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, hủy Quyết định 2211/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P. Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện P ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ cho bà Phạm Thị Q theo đúng quy định của pháp luật.

 [6] Án phí hành chính sơ thẩm: Bà Q không phải chịu án phí. Hoàn trả cho bà Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Ủy ban nhân dân huyện P phải chịu án phí 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 30, 32 và 193 Luật Tố tụng hành chính; Căn cứ Điều 69, Điều 74, Điều 93 và Điều 114 của Luật Đất đai 2013; Căn cứ Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ;

Căn cứ Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ;

Căn cứ Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang;

Căn cứ khoản 2 Điều 32 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Q.

Hủy Quyết định 2211/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Kiên Giang về việc bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem, tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

2. Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện P ban hành quyết định mới bồi thường, hỗ trợ cho bà Phạm Thị Q thay thế cho quyết định đã bị hủy theo đúng quy định của pháp luật.

3. Án phí hành chính sơ thẩm:

- Ủy ban nhân dân huyện P phải nộp 300.000 đồng.

- Hoàn trả cho bà Phạm Thị Q 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0005907 ngày 18/4/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

804
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2017/HC-ST ngày 12/07/2017 về khiếu kiện quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

Số hiệu:34/2017/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 12/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về