TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 341/2020/HS-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 28 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 322/2020/HS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 333/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Trần Văn H, sinh năm 1996 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm S, xã Th S, huyện A S, tỉnh Nghệ An; tạm trú: Số 14/35 khu phố B Đ 1, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn H, sinh năm 1964 và bà Bùi Thị V, sinh năm 1962; bị cáo có 04 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh 1992; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 09/5/2020 đến ngày 18/5/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú;
bị cáo tại ngoại, có mặt.
2. Lê Văn H1, sinh năm 1997 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm M, xã Đ S, huyện A S, tỉnh Nghệ An; tạm trú: Số 128/4 khu phố B Đ 3, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn M, sinh năm 1971 và bà Trần Thị H, sinh năm 1972; bị cáo có 02 chị ruột, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 09/5/2020 đến ngày 08/7/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Quyết định bão lĩnh; bị cáo tại ngoại, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Bùi Đức H2, sinh năm 2001; địa chỉ: Xóm M, xã Th S, huyện A S, tỉnh Nghệ An; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 09/5/2020, Trần Văn H đang ngồi uống cà phê với Bùi Đức H2 tại quán không tên thuộc thành phố Th D M, tỉnh Bình Dương. Lúc này, H mượn điện thoại hiệu Oppo sim số 0362.962.337 của Nguyễn Đức H điện thoại vào điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus sim số 0964.441.013 của Lê Văn H1 rủ H1 đánh bạc thắng thua bằng tiền. Sau đó, H1 đi mua 01 bộ bài 52 lá rồi đón xe mô tô Grap đến nhà nghỉ “S A” thuộc khu phố B Đ 2, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương thuê phòng 201 để chờ H đến đánh bạc. Lúc này, H1 nhắn tin cho H biết địa chỉ nhà nghỉ “S A” và số phòng 201 để H đến với nội dung “phòng 201, vô chú ý mấy thằng dân quân nó nhìn á”. Nhận được tin nhắn, H nhờ H2 chở H đến nhà nghỉ “S A”. H chỉ nói H2 chở đi công việc. Đến nhà nghỉ “S A”, H và H1 ngồi nói chuyện với nhau, H2 nằm trên nệm chơi điện thoại. Sau đó, H1 lấy 01 bộ bài tây 52 lá ra cùng H chơi bài cào tố liêng thắng thua bằng tiền, mỗi ván đặt từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng, cả hai chơi đến khoảng 22 giờ 45 phút cùng ngày thì bị Công an phường A B kiểm tra phát hiện bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) bộ bài tây 52 lá, số tiền 7.300.000 đồng, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus sim số 0964.441.013 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo sim số 0362.962.337.
Quá trình điều tra, xác định.
- Lê Văn H1 mang theo và sử dụng 3.800.000 đồng để đánh bạc, quá trình đánh bạc Hiếu thua 300.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trong người 3.500.000 đồng.
- Trần Văn H mang theo và sử dụng 3.500.000 đồng để đánh bạc, quá trình đánh bạc Hậu thắng 300.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trong người 3.800.000 đồng.
Tổng số tiền các bị cáo mang theo 7.300.000 đồng.
Đối với Bùi Đức H2 cho Trần Văn H mượn điện thoại di dộng nhưng không biết Hậu sử dụng điện thoại nhắn tin cho Lê Văn H1 để đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý.
Tại Bản cáo trạng số: 356/CT-VKS-DA ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Trần Văn H và Lê Văn H1 phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đồng thời đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các Trần Văn H và Lê Văn H1, mỗi bị cáo từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.
* Về xử lý vật chứng:
- Đối với số tiền 7.300.000 đồng, là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
- Đối 01 (một) bộ bài tây 52 lá, sim số 0964441013, là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus của bị cáo Lê Văn H1 sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo sim số 0362.962.337 là tài sản riêng của Bùi Đức H2, không liên quan đến việc phạm tội nên đề nghị trả lại cho Bùi Đức H2.
Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, xử lý vật chứng đồng thời các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Căn cứ vào lời khai của các bị cáo; người chứng kiến; biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và các chứng cứ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 22 giờ ngày 09/5/2020 tại phòng số 201 nhà nghỉ “S A” thuộc khu phố B Đ 2, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Trần Văn H và Lê Văn H1 rủ nhau đánh bạc dưới hình thức chơi bài cào tố liêng thắng thua bằng tiền, mỗi ván đặt từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng. Tổng số tiền các bị cáo dùng đánh bạc là 7.300.000 đồng.
[3] Như vậy, hành vi của các bị cáo đánh bạc dưới hình thức bài cào tố liêng thắng thua bằng tiền, tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc 7.300.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 356/CT-VKS-DA ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng, nhưng đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm trật tự công cộng, trật tự xã hội. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được đánh bạc dưới mọi hình thức ăn thua bằng tiền nhằm sát phạt lẫn nhau đều vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[5] Xét đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức. Các bị cáo là người trực tiếp tham gia chơi bài cào tố liêng thắng thua bằng tiền.
[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[8] Về nhân thân: Các bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và công nhân lao động nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.
[9] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Xét các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú và làm việc rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân tốt và người lao động, hơn nữa trong thời gian tại ngoại các bị cáo chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương, thời gian tạm giữ, tạm giam cũng đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo. Do áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo nên cần hủy bỏ các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 85/2020/HSST-LCĐKNCT ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với Trần Văn H và Quyết định bảo lĩnh số: 41/HSST-QĐBL ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với Lê Văn H1.
- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, do Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền đối với các bị cáo nên không áp dụng hình phạt đối với các bị cáo.
[10] Về xử lý vật chứng:
- Xét số tiền 7.300.000 đồng, là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
- Xét 01 (một) bộ bài tây 52 lá, sim số 0964441013, là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Xét 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus của bị cáo Lê Văn H1 sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
- Xét 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo sim số 0362.962.337 là tài sản riêng của Bùi Đức Hưng, không liên quan đến việc phạm tội nên cần tuyên trả lại cho Bùi Đức H2.
[11] Đối với Bùi Đức H2 cho Trần Văn H mượn điện thoại di dộng nhưng không biết Hậu sử dụng điện thoại nhắn tin cho Lê Văn H1 để đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý là đúng theo quy định của pháp luật.
[12] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt chính, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[13] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Trần Văn H và Lê Văn H1 phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Trần Văn H 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.
- Xử phạt bị cáo Lê Văn H1 25.000.000 (hai mươi triệu) đồng.
Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 85/2020/HSST-LCĐKNCT ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và Quyết định bảo lĩnh số: 41/2020/HSST-QĐBL ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus và 7.300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 01633 ngày 03/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An.
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bộ bài tây 52 lá, sim số 0964441013.
- Trả lại cho anh Bùi Đức H2 (một) điện thoại hiệu Oppo sim số 0362.962.337.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/8/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Các bị cáo Trần Văn H và Lê Văn H1, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 341/2020/HS-ST ngày 28/08/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 341/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về