TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 340/2017/HSPT NGÀY 10/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Hôm nay, ngày 10 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý 298/2017/HSPT, ngày 25/05/2017 đối với bị cáo Nguyễn Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự số 83/2017/HSST ngày 19/4/2017 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn T; (L) Giới tính: Nam; Sinh ngày 22/5/1971; Tại: Thành phố S; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 80 đường N, phường 3, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: bị cáo khai tại phiên tòa làm thợ sơn nước; Trình độ văn hoá: 7/12; Con ông Nguyễn Văn G (chết) và bà Trương Thị S (chết); Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; Nhân thân: ngày 15/5/1996 bị Tòa án nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; Ngày 05/01/1999, bị Tòa án nhân dân quận B xử phạt 18 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân”; Ngày 06/3/2002, bị Tòa án nhân dân quận B xử phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 24/3/2005, bị Tòa án nhân dân quận B 4 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày: 16/12/2016 (có mặt).
NHẬN THẤY
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận B và bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận B thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có tiền để trả nợ và tiêu xài cá nhân nên Nguyễn Văn T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, sáng ngày 16/12/2016 T đi bộ trong các con hẻm tại đường H, phường 7, quận B để xem nhà nào có tài sản sơ hở thì trộm cắp. Đến khoảng 6 giờ 30 phút cùng ngày, T đi bộ đến trước nhà số 23/40 đường N, phường 7, quận B thì thấy cửa nhà không khóa, khép hờ nên nên T mở cửa đi vào nhà thì nhìn thấy anh Trần Văn D đang nằm ngủ trên giường, bên cạnh anh D có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7. T đi lại lấy trộm chiếc điện thoại trên thì anh D thức dậy, phát hiện và tri hô, T liền chạy ra ngoài và ném lại chiếc điện thoại di động trên, anh D tiếp tục đuổi theo đến trước số 5/121 đường N, phường 7, quận B thì bắt được T giao cho công an xử lý.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 83/2017/HSST ngày 19/4/2017 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm g,p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T: 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2016.
Ngày 03/5/2017, bị cáo Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, mức hình phạt là thỏa đáng. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, do đó đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
XÉT THẤY
Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 16/12/2016 tại nhà số 23/40 đường N, phường 7, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn T đã có hành vi đột nhập lấy trộm chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 bên cạnh anh Trần Văn D đang nằm ngủ trên giường thì bị anh D phát hiện bắt giữ.
Tại thông báo kết luận về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B số: 56/TB-TCKH ngày 20 tháng 01 năm 2017 của Phòng tài chính – kế hoạch UBND quận B: “Một chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu bạc trị giá 4.500.000 đồng.
Với hành vi đó Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi trả lại cho người bị hại, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội gây thiệt hại không lớn, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn thuộc thành phần lao động nghèo để áp dụng các điểm g,p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đã xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 năm tù là có cơ sở. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới, đồng thời xét bị cáo có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xét xử về các tội chiếm đoạt tài sản. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T (L); Giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T (L) phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm g,p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T (L): 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2016.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 340/2017/HSPT ngày 10/07/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 340/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về