Bản án 339/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 339/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 389/2019/TLST-HS ngày 31/10/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 350/2019/QĐXXST-HS ngày 04/11/2019, đối với bị cáo:

Bùi Công S; sinh năm: 1981; tại: tỉnh Nam Định; hộ khẩu thường trú: Lô A, Chung cư A, khu phố 5, phường T, Quận X, Thành phố H; nghề nghiệp: Sửa chữa điện tử; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Sỹ H; và bà: Phùng Thị P; vợ Trần Thị Thu T; có 01 con (sinh năm 2017); tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 29/10/2003, bị Tòa án quận T, Thành phố H xử 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Ngày 28/12/2009, bị Ủy ban nhân dân quận B đưa đi chữa bệnh bắt buộc trong thời hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị bắt, tạm giam ngày: 24/5/2019. (Có mặt)

- Người làm chứng:

1.Anh Nguyễn Trung K, sinh năm: 1993. (Vắng mặt)

2. Anh Phạm Khắc T, sinh năm 1967. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Lúc 12 giờ 30 phút ngày 24/5/2019, Công an phường H, quận Thủ Đức kiểm tra tại nhà để xe khách sạn T, số X Quốc lộ Y, Khu phố Z, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang Bùi Công S có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm 01 gói nylon trong nón kết màu đen do S đang đội trên đầu trong gồm có 01 gói nylon chứa 05 viên nén hình tròn màu xanh; 05 gói nylon chứa tinh thể không màu, 02 gói nylon chứa bột màu trắng và 01 xe mô tô biển số 59V2-05367. Sau đó, đưa S cùng tang vật vụ án về Công an phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Kết luận giám định số 1164/KLGD-H ngày 31/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

+ 01 nylon chứa 05 viên nén hình tròn màu xanh có khối lượng 1,9456g không tìm thấy ma túy.

+ 05 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,0673g, loại Methamphetamine;

+ 02 gói nylon chứa bột màu trắng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1671g, loại Heroin.

Bùi Công S khai nhận là người nghiện ma túy tổng hợp từ đầu năm 2018 đến ngày bị bắt. Số ma túy thu giữ trên là của S mua về để sử dụng. Khoảng 12 giờ ngày 24/5/2019, S điều khiển xe mô tô biển số 59V2-05367 đến khu vực Bến xe An Sương, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy của một người thanh niên không rõ lai lịch với giá 1.200.000 đồng. Sau đó, S cất ma túy vào trong nón kết rồi đội nên đầu, điều khiển xe về khách sạn T, số X Quốc lộ Y, Khu phố Z, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an quận Thủ Đức phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng của vụ án:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 1164/KLGD-H bên ngoài có chữ ký của GĐV Trần Đình Hải, bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định.

- 01 nón kết màu đen;

- 01 xe mô tô hiệu Airblade màu cam biển số 59V2-05367 [2] Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Công S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố.

Bản Cáo trạng số 338/CT-VKSTĐ ngày 28/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Bùi Công S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Bùi Công S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, và các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo 02 năm đến 03 năm tù, tịch thu tiêu hủy ma túy, 01 nón kết màu đen, tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô hiệu Airblade màu cam biển số 59V2-05367.

Bị cáo Bùi Công S tranh luận, bào chữa: chiếc xe Airblade là do mẹ bị cáo mua cho bị cáo để bị cáo đi làm, sau khi ra tù nếu không có xe đi làm sẽ rất khó khăn cho gia đình bị cáo nên xin được trả lại xe.

Bị cáo Bùi Công S nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Công S phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, với khối lượng ma túy bị cáo bị bắt quả tang theo kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,0673 gam loại Methamphetamine và 0,1671 gam loại Heroin, tổng cộng là 2,2344 gam. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Bùi Công S đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Vì động cơ thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ, tàng trữ một lượng ma túy nhất định, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của nhà nước. Vì vậy, cần xử lý bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Do hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 1164/KLGĐ–H bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Trần Đình H, bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 nón kết màu đen bị thu giữ là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy - 01 xe mô tô hiệu Airblade màu cam biển số 59V2-AAAAA, số máy: JF46E-5080083; số khung: JF461XEY-380046 do bị cáo Bùi Công S là người đứng tên sở hữu. Xét thấy, bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy, là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Bùi Công S phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Căn cứ điểm c, i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Công S 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/5/2019.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, + Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi vụ số 1164/KLGĐ–H bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Trần Đình H, bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định, 01 nón kết màu đen.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Airblade màu cam biển số 59V2-05367, số máy: JF46E-5080083; số khung: JF461XEY-380046.

(Phiếu nhập kho số 30 ngày 18/11/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức) - Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Bùi Công S chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 339/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:339/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về