Bản án 338/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH B

 BẢN ÁN 338/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 13 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Lê Tố N, sinh năm: 1980 (có mặt) nơi ở: Tổ 7, KV1, phường T, Tp. Q, tỉnh B.

Bị đơn: Anh Lâm Quang D, sinh năm: 1974 (vắng mặt) nơi ở: Tổ 7, KV1, phường T, Tp. Q, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Lê Tố N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Lâm Quang D chung sống với nhau vào năm 2003 đến ngày 05/02/2004 đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện T, tỉnh P, tự nguyện, có tìm hiểu. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường đến năm 2014 mâu thuẫn gay gắt và chị làm đơn xin ly hôn anh D. Tòa án nhân dân thành phố Q đã giải quyết và công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị và anh D theo quyết định số 75/2014/QĐST - HNGĐ ngày 24/02/2014. Sau khi ly hôn thì chị nhận thấy vì con để có cha và mẹ nên chị và anh D chung sống trở lại và đi đăng ký kết hôn lần 2 số 163 ngày 26/12/2016 tại UBND phường T, thành phố Q, tỉnh B. Sau khi kết hôn lại lần 2 thì chị có thai đứa con thứ hai nhưng tình cảm vợ chồng vẫn tiếp tục mâu thuẫn. Đến năm 2017 vợ chồng mâu thuẫn gay gắt và tự sống ly thân đến nay. Tuy sống cùng một nhà nhưng phần ai nấy sống không ai quan tâm đến ai.

Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị không thể nào chung sống với anh D được nữa nên chị quyết định xin ly hôn anh D để ổn định cuộc sống riêng.

Về con chung: Vợ chồng chung sống có hai con chung là: Lâm Nguyễn Thanh V, sinh ngày: 06/4/2004 và Lâm Nguyễn Vân A, sinh ngày: 02/5/2017. Sức khỏe các cháu bình thường, hiện nay đang ở chung với vợ chồng. Khi ly hôn chị xin nuôi cháu Vân A. Còn anh D nuôi cháu Thanh V. Về việc cấp dưỡng nuôi con thì vợ chồng tự giải quyết không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự giải quyết không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại bản khai ngày 25/01/2021 bị đơn anh Lâm Quang D trình bày: Thống nhất về thời gian, điều kiện kết hôn như chị N đã khai. Anh và chị Nguyễn Lê Tố N chung sống với nhau vào năm 2003 đến ngày 05/02/2004 đăng ký kết hôn tại UBND xã H huyện T, tỉnh P, tự nguyện, có tìm hiểu. Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Sau đó do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng đã ly hôn một lần vào năm 2014. Sau đó vợ chồng đã tự nhận lỗi của mình và quyết định chung sống trở lại và đăng ký kết hôn số 163 ngày 26/12/2016 tại UBND phường T, thành phố Q, tỉnh B. Vợ chồng vẫn chung sống bình thường. Nay chị N xin ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng chung sống có hai con chung là: Lâm Nguyễn Thanh V, sinh ngày: 06/4/2004 và Lâm Nguyễn Vân A, sinh ngày: 02/5/2017. Sức khỏe các cháu bình thường, hiện nay đang ở chung với vợ chồng. Khi ly hôn anh xin nuôi hai con chung và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Vì hiện nay chị N không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không đảm bảo nuôi hai con chung. Còn anh thu nhập 8.000.000đồng/tháng đủ khả năng để nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự giải quyết không yêu cầu Tòa giải quyết.

+ Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật về tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể t khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn không chấp hành việc có mặt theo giấy triệu tập của Tòa.

+Về quan điểm giải quyết vụ án đề nghị:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Lê Tố N ly hôn anh Lâm Quang D.

- Về nuôi con chung:

+ Giao con chung: Lâm Nguyễn Vân A, sinh ngày: 02/5/2017 cho chị Nguyễn Lê Tố N trực tiếp nuôi dưỡng.

+ Giao con chung: Lâm Nguyễn Thanh V, sinh ngày: 06/4/2004 cho anh Lâm Quang D trực tiếp nuôi dưỡng + Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị N và anh D không yêu cầu nên không giải quyết.

- Về tài sản chung: Tòa không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Lâm Quang D - là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Lâm Quang D.

[2] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Lê Tố N và anh Lâm Quang D là hôn nhân hợp pháp. Chị N xin ly hôn anh D vì tình cảm vợ chồng không còn là do vợ chồng không hợp nhau về cách sống, lối sống. Chị đã nhiều lần bỏ về nhà cha mẹ chị ở nhưng vì con chị cố gắng chịu đựng để gia đình hòa thuận nhưng mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt và tự sống ly thân t năm 2017 đến nay. Nay chị không còn tình cảm với anh D nên chị yêu cầu được ly hôn anh D. Còn bị đơn anh D tuy không đồng ý ly hôn nhưng anh không đưa ra được biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hơn nữa quá trình giải quyết vụ án Tòa đã tạo điều kiện hòa giải để chị N và anh D hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh D cố tình vắng mặt.

Xét thấy hôn nhân giữa chị N và anh D không còn thương yêu, quý trọng, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống vợ chồng. Do đó hôn nhân của anh, chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó yêu cầu ly hôn của chị N là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị N và anh D có hai con chung là: Lâm Nguyễn Thanh V, sinh ngày: 06/4/2004 và Lâm Nguyễn Vân A, sinh ngày: 02/5/2017, sức khỏe các cháu bình thường và hiện nay đang ở với vợ chồng. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị N yêu cầu được nuôi cháu Lâm Nguyễn Vân A. Còn anh D nuôi cháu Lâm Nguyễn Thanh V. Về việc cấp dưỡng nuôi con chị N không yêu cầu Tòa giải quyết. Tại bản khai ngày 25/01/2021 anh D khai xin nuôi hai con chung và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Tòa đã triệu tập hợp lệ chị N và anh D đến Tòa hòa giải nhưng anh D vẫn cố tình vắng mặt.

Xét thấy: Hiện nay cháu Lâm Nguyễn Thanh V có nguyện vọng muốn ở với anh D. Còn cháu Lâm Nguyễn Vân A còn nhỏ cần sự chăm sóc tỉ mỉ của người mẹ. Xuất phát t lợi ích mọi mặt của các cháu, do đó yêu cầu nuôi con của chị N là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được HĐXX chấp nhận.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị N và anh D không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị N và anh D không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

[5] Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Lê Tố N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quộc Hội.

Ý kiến đề nghị của đại diện viện kiểm sát về nội dung vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quộc Hội. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Lê Tố N ly hôn anh Lâm Quang D.

2. Về nuôi con chung:

- Giao con chung: Lâm Nguyễn Vân A, sinh ngày: 02/5/2017 cho chị Nguyễn Lê Tố N trực tiếp nuôi dưỡng.

- Giao con chung: Lâm Nguyễn Thanh V, sinh ngày: 06/4/2004 cho anh Lâm Quang D trực tiếp nuôi dưỡng - Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị N và anh D không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên đều có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung, không bên nào được ngăn cản..

3. Về tài sản chung: Chị N và anh D không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Lê Tố N phải nộp 300.000đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được tr vào tạm ứng án phí theo biên lai số 0003314 ngày 06/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q. Chị N đã nộp đủ án phí.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Lâm Quang D vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính t ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 338/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:338/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về