Bản án 336/2020/HS-ST ngày 07/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 336/2020/HS-ST NGÀY 07/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 349/2020/TLST- HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 347/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/ Trần Trí L, sinh năm 1995 tại Kiên Giang. Nơi cư trú: Ấp L, xã H, huyện A, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn D và bà Hà Thị U; bị cáo có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không có.

2/ Lê Nhựt H, sinh năm 2000 tại An Giang. Nơi cư trú: Ấp V, xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn N, sinh năm 1963 và bà Phan Thị N, sinh năm 1973; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không có Các bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 17/8/2020. Có mặt.

Người làm chứng: Bà Hoàng Thị A (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 55 phút ngày 17 tháng 8 năm 2020, khi tổ tuần tra của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương phối hợp cùng Công an phường G tiến hành kiểm tra hành chính phòng số 04 nhà nghỉ “L” tại số 1/DC62/57 khu phố H, phường G, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì phát hiện có 02 đối tượng là Lê Nhựt H và Trần Trí L đang lưu trú trong phòng có biểu hiện nghi vấn. Quá trình kiểm tra, lực lượng công an phát hiện bên trong ngăn tủ trên cùng của tủ gỗ ba ngăn đặt ở phía bên phải hướng từ cửa phòng nhìn vào có 01 (một) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng và bên trong bồn cầu nhà vệ sinh có 01 (một) bộ sử dụng ma túy đá.

Các bị cáo khai nhận đó là ma túy đá do cả hai cất giấu nhằm mục đích sử dụng dần nên lực lượng công an đã đưa các đối tượng cùng tang vật về trụ sở để làm việc.

Qua điều tra, các bị cáo H và L khai nhận vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 16/8/2020, khi đang thuê phòng tại nhà nghỉ L, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên L rủ Hào mua ma túy thì được H đồng ý. L sử dụng số điện thoại 0941.788.116 gọi vào số 079.494.0563 của đối tượng tên T (không rõ nhân thân lai lịch) để đặt mua 01 gói ma túy đá với giá 300.000đồng, T hẹn L đến khu vực gần quán Karaoke N (thuộc phường G) để giao ma túy và nhận tiền. Sau đó, L nói với H ra chỗ hẹn để mua ma túy từ T, còn L đi bộ ra khu vực phường G mua một nỏ thủy tinh giá 15.000đồng để mang về chế tạo bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Khi cả hai về phòng thuê thì cùng nhau sử dụng số ma túy vừa mua, số còn lại chưa sử dụng L hàn kín lại và cất trong tủ gỗ.

Ngày 25/8/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số 524/MT-PC09 với nội dung: Mẫu chất màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,4133gam, loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 361/CT-VKS -TA ngày 19/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo Trần Trí L và Lê Nhựt H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hâu quả hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Trần Trí L từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù và bị cáo Lê Nhựt H từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bì thư niêm phong ghi vụ số 524/PC09 (mẫu vật hoàn lại sau giám định) của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong là ma túy loại Methamphetamine và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, là vật chứng trong vụ án nên đề xuất tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu KECHAODA màu đen kèm sim số 0941.788.116 thu giữ của L được xác định là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên đề xuất tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với đối tượng tên T đã bán ma túy cho các bị cáo, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng theo nội dung Viện kiểm sát truy tố. Các bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Trí L và Lê Nhựt H cùng khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người làm chứng, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 17/8/2020, tại phòng số 04 nhà nghỉ “L”, số 1/DC62/57 khu phố H, phường G, thành phố T, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Trần Trí L và Lê Nhựt H thực hiện hành vi tàng trữ 01 (một) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; qua giám định xác định mẫu tinh thể trên là ma túy, có khối lượng 0,4133gam; loại Methamphetamine.

Do đó, Cáo trạng truy tố các bị cáo Trần Trí L và Lê Nhựt H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo nhận thức được hành vi cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng là vi phạm pháp luật Hình sự nhưng để thỏa mãn cơn nghiện, các bị cáo đã mua và cất giấu ma túy, hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy phải xét xử mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng cho các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, tuy nhiên cũng cần phân hóa vai trò của từng bị cáo để áp dụng hình phạt cho phù hợp. Cả hai cùng là người thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo L là người rủ rê bị cáo H mua ma túy về để sử dụng chung, đồng thời là người gọi điện thoại đặt mua ma túy và trực tiếp đi mua vật liệu để chế tạo dụng cụ sử dụng ma túy, còn bị cáo H là người trực tiếp đi mua ma túy theo chỉ dẫn của bị cáo L, cho thấy vai trò của bị cáo L cao hơn bị cáo H, vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo L mức án cao hơn bị cáo H.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo L và H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Đối với đối tượng tên T đã bán ma túy cho các bị cáo, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bì thư niêm phong ghi vụ số 524/PC09 (mẫu vật hoàn lại sau giám định) của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong là ma túy loại Methamphetamine và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, là vật chứng trong vụ án nên tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu KECHAODA màu đen kèm sim số 0941.788.116 thu giữ của L được xác định là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo Trần Trí L và bị cáo Lê Nhựt H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Trí L và bị cáo Lê Nhựt H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Trí L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/8/2020 Xử phạt bị cáo Lê Nhựt H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/8/2020

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong ghi vụ số 524/PC09 (mẫu vật hoàn lại sau giám định) của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong là ma túy loại Methamphetamine và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

- Tịch thu, sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu KECHAODA màu đen kèm sim số 0941.788.116 (Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/11/2020).

3. Về án phí:

Buộc bị cáo Trần Trí L và bị cáo Lê Nhựt H mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 336/2020/HS-ST ngày 07/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:336/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về