TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 334/2020/HS-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 407/2020/HSST ngày 13 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3766/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:
Lý Chính T; giới tính: nam; sinh ngày 04 tháng 5 năm 1990 tại Vĩnh Long; thường trú: số AL1 đường PD (số A lầu 1 đường PD), Phường G, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: tổ K ấp L1 (tổ K ấp LI), xã M, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 8/12; nghề nghiệp: không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông: LNB (chết) và bà: TTKC; hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: không;
Tiền sự: Ngày 15/3/2018, Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 123/QĐ-TA đối với Lý Chính T, thời hạn áp dụng là 24 tháng (BL 95-96); ngày 17/10/2019, chấp hành xong biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Giấy chứng nhận về việc chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 825/GCN-CSPV ngày 16/9/2019 của Cơ sở cai nghiện ma túy bảo trợ xã hội Phú Văn - BL 97);
Nhân thân:
- Ngày 21/9/2011, bị Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về “Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bản án hình sự sơ thẩm số 132/2011/HSST – BL 80-82);
- Ngày 13/4/2012, bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về “Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 02 năm tù về “Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 132/2011/HSST ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân Quận 11, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 03 năm tù (Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2012/HSST – BL 83-84). Bị cáo có kháng cáo. Ngày 25/7/2012, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm (Bản án hình sự phúc thẩm số 396/2012/HSPT – BL 85-88). Ngày 20/01/2014, bị cáo chấp hành xong án phạt tù (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 52/GCN- CHXHPT của Giám thị Trại giam Châu Bình – BL 89);
- Ngày 04/01/2016, bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về “Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2016/HSST – BL 90-92); ngày 06/9/2017, bị cáo chấp hành xong án phạt tù (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 891/GCN của Giám thị Trại giam An Phước – BL 94);
Bị cáo đã nộp án phí hình sự sơ thẩm theo biên lai thu số 5594 ngày 21/8/2012 (đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 132/2011/HSST ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh); án phí hình sự sơ thẩm, án phí hình sự phúc thẩm theo biên lai thu số 1731 ngày 12/12/2012 (đối với Bản án hình sự phúc thẩm số 396/2012/HSPT ngày 25/7/2012 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh); án phí hình sự sơ thẩm theo biên lai thu số 3977 ngày 16/02/2016 (đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2012/HSST ngày 04/01/2016 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh);
Bị bắt, tạm giam ngày: 05/3/2020 (có mặt) - Người bào chữa cho bị cáo:
Bà Cao Thị Kiều Trang - Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Kiều Trang, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh – bào chữa chỉ định cho bị cáo Lý Chính T (có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà TTKC, sinh nm: 1955 (có mặt) Thường trú: số AL1 đường PD (số A lầu 1 đường PD), Phường G, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh Chỗ ở: số O đường MTT, Phường G, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Diễn biến sự việc:
Vào lúc 14 giờ 10 phút ngày 05/3/2020, tại tuyến đường LTS, ấp Q, xã M, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Củ Chi kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang bị cáo Lý Chính T có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ 01 túi xách hiệu Adidas (bị cáo mang trên người), bên trong túi xách có: 08 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định xác định đây là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 43,4698 gam, loại Methamphetamine); thu giữ trong cốp xe máy biển số 59H1-YYY.YY của bị cáo 01 khẩu súng ngắn màu đen, trên thân súng có ký hiệu 871072 (qua giám định xác định là đồ chơi nguy hiểm) và 99 viên bi kim loại hình tròn cỡ 5,9mm, thường được dùng để làm đạn bi sử dụng cho các loại súng đồ chơi, súng tự chế bắn đạn bi bằng lò xo, khí nén có cỡ nòng khoảng từ 5,9mm đến 6mm.
Tại Cơ quan điều tra:
Bị cáo Lý Chính T khai nhận bắt đầu sử dụng ma túy và mua bán trái phép ma túy từ tháng 01/2020 đến ngày bị bắt quả tang. Do cần tiền mua bán ma túy để sử dụng nên bị cáo đã thông qua bạn bè liên hệ với đối tượng P (không rõ lai lịch) để mua ma túy về sử dụng và bán lại kiếm lời. Tổng cộng bị cáo đã mua của đối tượng P 03 lần, đều giao dịch tại khu vực chân cầu R, Quận S. Lần thứ 01, vào khoảng đầu tháng 01/2020, T đã mua của P 1,5 hộp 10 ma túy đá (tương đương 15 gam) với số tiền 3.000.000 đồng. Lần thứ 02, cách lần đầu khoảng 10 ngày, T mua 02 hộp 10 ma túy đá (tương đương 20 gam) với số tiền 4.000.000 đồng về sử dụng và phân lẻ ra thành nhiều gói bán cho đối tượng nghiện với giá từ 150.000 đồng đến 200.000 đồng, thu lợi được tổng số tiền 2.500.000 đồng. Lần thứ 03, vào khoảng 02 giờ 00 ngày 05/3/2020, bị cáo đi xe máy từ huyện Củ Chi đến Quận 1 và gọi điện thoại cho đối tượng P đặt mua 04 hộp 10 ma túy đá (tương đương 40 gam), Phong báo giá là 8.500.000 đồng, T đồng ý. Sau đó, T 01 mình điều khiển xe máy đến điểm hẹn tại khu vực chân cầu R, Quận S gặp P, tại đây T đưa P số tiền 8.500.000 đồng và nhận từ P 01 hộp bánh bên trong có chứa ma túy đá. T mang ma túy về khách sạn ở Quận 1 (bị cáo không nhớ địa điểm), lấy ra một ít ma túy để sử dụng, số còn lại phân thành 08 gói nylon chứa ma túy đá. Đến khoảng 13 giờ 00 cùng ngày, bị cáo bỏ ra 08 gói nylon chứa ma túy đá vào túi xách hiệu Adidas mang trên người và điều khiển xe máy di chuyển về huyện Củ Chi với mục đích bán lại cho đối tượng nghiện để kiếm lời thì bị phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.
Bị cáo T cũng khai đã bán ma túy cho khoảng 04 người, trong đó có ông NTK1 (sinh năm 1998; trú tại: tổ K2, ấp Q1, xã M, huyện N) khoảng 03 lần, mỗi lần 0,2 gam ma túy đá với giá 200.000 đồng và ông ĐML1 (sinh năm 1999; trú tại: tổ K2, ấp Q1, xã M, huyện N) 03 lần, mỗi lần 01 gói ma túy đá với giá 150.000 đồng đến 200.000 đồng. Ngoài ra, bị cáo khai cùng ông K1 sử dụng trái phép chất ma túy khoảng 03 lần, trong đó lần thứ 03 có thêm ông L1. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của ông L1.
Văn bản giám định của cơ quan chuyên môn:
Tại Kết luận giám định số 418/KLGĐ-H ngày 12/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL 44a-44b) thể hiện:
Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định (tinh thể không màu trong 08 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Lý Chính T và hình dấu Công an xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi) là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 43,4698 gam, loại Methamphetamine.
Tại Kết luận giám định số 465/KLGĐ-TT ngày 18/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL 42) thể hiện:
1. Khẩu súng ngắn gửi giám định là loại súng ngắn bắn đạn bi bằng khí nén, có đường kính nòng 5,9mm, số súng: “871072”, không xác định nơi sản xuất; súng còn đầy đủ các bộ phận, hoạt động bình thường. Căn cứ quy định tại mục 2, Quyết định số 464/QĐ-BNV (C13) ngày 27/12/1993 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) ban hành thì khẩu súng ngắn gửi giám định nêu trên là đồ chơi nguy hiểm bị cấm.
2. Chín mươi chín viên bi kim loại gửi giám định là loại bi kim loại cỡ 5,9mm, thường được dùng để làm đạn bi sử dụng cho các loại súng đồ chơi, súng tự chế bắn đạn bi bằng lò xo, khí nén có cỡ nòng khoảng từ 5,9mm đến 6mm.
Tại bản Cáo trạng số 306/CT-VKS-P1 ngày 08 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Lý Chính T về “Tội Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lý Chính T khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng ghi nhận.
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích tính chất, mức độ của hành vi phạm tội cùng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như phạm tội 02 lần trở lên, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là quân nhân xuất ngũ, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt Lý Chính T từ 15 đến 16 năm tù, buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng sung vào ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, Kiểm sát viên cũng đề nghị xử lý phần tang vật theo quy định pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với tội danh và điều luật mà bản Cáo trạng truy tố. Luật sư nộp bổ sung một số văn bản và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ như: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; từng có thời gian phục vụ quân đội; có mẹ là bà TTKC từng đóng góp trong phong trào chữ thập đỏ (bản sao Huy chương vì sự nghiệp chữ thập đỏ Việt Nam); gia đình có hoàn cảnh khó khăn (Đơn xin xác nhận ngày 18/8/2020 (có xác nhận của Ủy ban nhân dân Phường 11, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh) và Đơn xin cứu xét ngày 12/8/2020 cùng của bà TTKC về việc gia đình bà C thuộc hộ gia đình khó khăn, bà phải hỗ trợ tiền nuôi 02 cháu là con của bị cáo T, bản thân bà bị mất sức lao động…); bị cáo có 02 con nhỏ (các bản photo Giấy khai sinh cháu NGB1, sinh ngày 19/7/2018 và cháu NMK3, sinh ngày 22/5/2015) nhưng do không đăng ký kết hôn nên trong các Giấy khai sinh không có họ tên cha.... để quyết định mức hình phạt tù thấp hơn mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị cũng như không áp dụng hình phạt bổ sung hoặc áp dụng mức phạt tiền thấp hơn số tiền phạt được đề nghị. Bên cạnh đó, Luật sư cũng cho biết chiếc xe biển số 59H1-YYY.YY bị thu giữ trong vụ án là do bà C trả tiền góp hàng tháng trước và sau khi bị cáo bị bắt nên đề nghị Hội đồng xét xử giao trả chiếc xe cho bà C.
Đối đáp với quan điểm bào chữa của Luật sư, Kiểm sát viên nhận định bị cáo Lý Chính T đã nhiều lần bị xét xử về hình sự cũng như bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc nhưng khi vừa trở về hòa nhập cộng đồng, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên Kiểm sát viên giữ nguyên mức hình phạt chính và hình phạt bổ sung đã đề nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo cũng không có ý kiến, khiếu nại đối với các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng.
Về các thông tin tại phần lý lịch của bị cáo Lý Chính T: Trang 1 và 2 Lý lịch bị can (BL 67-68) ghi nhận Lý Chính T có nơi thường trú: số AL1 đường PD, Phường G, Quận H; chỗ ở: ấp L1, xã M, huyện N; không thể hiện thông tin về vợ, con. Theo đó:
- Đối với thông tin địa chỉ thường trú và chỗ ở của bị cáo Lý Chính T:
Tại trang 4 Lý lịch bị can, Công an Phường 11, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận: “Lý Chính T SN 1990 – thường trú: số A lầu 1 đường PD, Phường G, Quận H như trên là đúng”; cách ghi này phù hợp với Bản photo Sổ hộ khẩu (BL 71-73, đã được Điều tra viên đối chiếu với bản chính). Bên cạnh đó, bản photo Căn cước công dân (BL 69, đã được Điều tra viên đối chiếu với bản chính) ghi nhận Lý Chính T có địa chỉ thường trú là “số AL1 đường PD, Phường G, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh”, phù hợp với cách ghi tại trang 1 Lý lịch bị can.
Tại trang 3 Lý lịch bị can, Công an xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận: “Đ/s Lý Chính T SN 1990 thực tế cư trú tại tổ K ấp LI, xã M – N”. Bên cạnh đó, Lệnh khám xét khẩn cấp số 16 ngày 05/3/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi, Biên bản khám xét cùng ngày thể hiện việc khám xét chỗ ở của bị cáo được thực hiện tại tổ K ấp L1, xã M, huyện N (BL 38, 39).
Từ đó, Hội đồng xét xử ghi nhận về địa chỉ thường trú và chỗ ở của bị cáo Lý Chính T như phần đầu bản án đã thể hiện.
- Đối với thông tin về hoàn cảnh gia đình của bị cáo:
Tại phiên tòa, người bào chữa trình bày bị cáo có 02 con nhỏ (các bản photo Giấy khai sinh cháu NGB1, sinh ngày 19/7/2018 và cháu NMK3, sinh ngày 22/5/2015) nhưng do không đăng ký kết hôn nên trong các Giấy khai sinh không có họ tên cha. Xét thấy tại Lý lịch bị can ghi nhận bị cáo chưa có vợ con, các tài liệu khác có trong hồ sơ như Danh bản, Trích lục tiền án, tiền sự (BL 76, 77) cùng các bản án hình sự đã xét xử, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đã áp dụng đối với bị cáo cũng không thể hiện việc bị cáo có vợ, con; các bản photo Giấy khai sinh được nộp tại phiên tòa cũng không có họ tên cha nên Hội đồng xét xử ghi nhận bị cáo chưa có vợ, con như phần đầu bản án đã thể hiện.
[2] Quá trình điều tra vụ án và xét hỏi tại phiên tòa thể hiện lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, vật chứng thu được, bản kết luận giám định… Hội đồng xét xử có căn cứ xác định nội dung vụ án như bản Cáo trạng ghi nhận, cụ thể:
Bị cáo Lý Chính T đã có hành vi mua đi bán lại trái phép chất ma túy, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng là 43,4698 gam, loại Methamphetamine từ đối tượng tên P và bán cho các đối tượng nghiện (trong đó có ông NTK1, ông ĐML1) nhằm hưởng lợi và bị bắt quả tang cùng tang vật là ma túy.
Bị cáo nhận thức được ma túy là chất gây nghiện độc hại, các hoạt động liên quan đến ma túy chịu sự quản lý và kiểm soát nghiêm ngặt của Nhà nước theo các quy định pháp luật, nhận thức được các hoạt động trái phép liên quan đến ma túy nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác nhưng do thiếu ý thức tôn trọng pháp luật nên bị cáo vẫn thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia, xâm phạm đến hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
Từ các lập luận trên, đối chiếu các quy định pháp luật, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận bị cáo Lý Chính T phạm “Tội Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Lý Chính T phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng khối lượng ma túy bị thu giữ là: 43,4698 gam, loại Methamphetamine, thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định bị cáo thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho nhiều người trong nhiều lần nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo.
Bên cạnh đó, Hội đồng xét xử cũng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải; có mẹ là bà TTKC từng đóng góp trong phong trào chữ thập đỏ (bản sao Huy chương vì sự nghiệp chữ thập đỏ Việt Nam); hoàn cảnh gia đình khó khăn (Đơn xin xác nhận ngày 18/8/2020 có xác nhận của Ủy ban nhân dân Phường 11, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh); bản thân bị cáo từng có thời gian phục vụ quân đội (Quyết định về việc quân nhân xuất ngũ số 48/QĐ-BCH ngày 28/7/2010 của Lữ đoàn 434 – Bộ Tư lệnh quân đoàn 4 – BL 79, bản photo đã được Điều tra viên đối chiếu với bản chính) quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định.
Ngoài ra, Hội đồng xét xử còn áp dụng khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để buộc bị cáo nộp phạt một khoản tiền sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định.
[3] Đối với một số nội dung khác:
- Đối với đối ông NTK1 và ông ĐML1:
Cơ quan điều tra đã chuyển giao 02 ông cho Công an xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi tiến hành xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Do không thu giữ được vật chứng liên quan đến ma túy nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0011487/QĐ-XPHC và số 0011488/QĐ-XPHC ngày 21/3/2020 của Công an huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh – BL 64, 63).
- Đối với đối tượng P: Do bị cáo khai không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.
- Đối với 01 khẩu súng ngắn màu đen, trên thân súng có ký hiệu 871072, kèm theo 01 hộp tiếp đạn bằng kim loại màu đen và 99 viên bi bằng kim loại màu trắng được thu giữ từ bị cáo:
Bị cáo Lý Chính T khai trong một lần đi ngang cầu vượt Tân Thới Hiệp, Quận 12 (không nhớ rõ thời gian), bị cáo thấy 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) bán đồ dạo có bán khẩu súng và hộp tiếp đạn cùng các viên bi kim loại nên đã mua với số tiền 1.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo đem về, chưa sử dụng thì bị phát hiện, thu giữ.
Kết quả giám định thể hiện đây là đồ chơi nguy hiểm bị cấm nên ngày 28/4/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có Công văn số 750/PC04-Đ 5 đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi tiếp nhận hồ sơ cùng 01 khẩu súng, 01 hộp tiếp đạn và 99 viên bi bằng kim loại để xử lý hành chính theo quy định pháp luật (BL 36). Ngày 27/5/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi đã tiếp nhận các vật trên (Biên bản giao, nhận vật chứng tại Công an huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh - BL 37). Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét xử lý 01 khẩu súng, 01 hộp tiếp đạn và 99 viên bi bằng kim loại nêu trên.
[4] Vật chứng của vụ án:
Đối với số ma túy chứa trong 01 gói niêm phong: Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.
Đối với 12 túi nylon; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 cái kéo; 01 ống nhựa dài khoảng 10cm; 06 ống hút bằng nhựa; 01 túi xách có chữ Adidas: Các vật này không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 cái điện thoại di động hiệu Vivo và 01 cái điện thoại di động hiệu Nokia 1110i (thu giữ khi bắt quả tang bị cáo): Do đây là công cụ thực hiện hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
Đối với số tiền 1.200.000 đồng (tạm giữ khi bắt quả tang bị cáo): Do đây là tiền do hành vi phạm tội mà có nên Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
Đối với chiếc xe gắn máy biển số 59H1-YYY.YY:
Kết quả xác minh thể hiện chiếc xe do bị cáo Lý Chính T đứng tên sở hữu. Bị cáo T khai chiếc xe này do mẹ bị cáo là bà TTKC bỏ tiền ra mua và giao cho bị cáo đứng tên sở hữu cũng như sử dụng làm phương tiện đi lại; bà C không biết việc bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy về bán kiếm lời.
Tại phiên tòa, bà TTKC xác định chiếc xe biển số 59H1-YYY.YY là do bà trả tiền góp hàng tháng (nộp kèm bản photo các phiếu thanh toán trả góp) và nhờ con trai đứng tên chủ sở hữu do cơ sở bán xe không đồng ý để người trên 60 tuổi đứng tên chủ sở hữu. Hiện bà có yêu cầu được giao trả chiếc xe trên.
Lời khai này của bị cáo và bà C phù hợp với nhau, phù hợp với nội dung các phiếu thanh toán được nộp tại phiên tòa (thể hiện việc sau thời điểm bị cáo bị bắt, bà C là người đóng tiền góp xe hàng tháng). Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của bà C là có cơ sở nên giao trả chiếc xe cho bà C.
[5] Các lập luận trên đây cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm truy tố của Cáo trạng; chấp nhận một phần quan điểm bào chữa của Luật sư về việc xem xét tình tiết giảm nhẹ và cân nhắc mức hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;
Tuyên bố bị cáo Lý Chính T phạm “Tội Mua bán trái phép chất ma túy”; Xử phạt: Lý Chính T: 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2020.
Buộc bị cáo Lý Chính T nộp phạt số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng sung vào ngân sách Nhà nước.
Tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 418/2020, có chữ ký của giám định viên BCD1 (PC09) và Cán bộ điều tra NQT (Cơ quan CSĐT Công an huyện Củ Chi), bên trong là ma túy còn lại sau giám định; mã số: GNP/355BB/2020;
- 22 (hai mươi hai) cái có mã số TUI/355BB/2020, gồm:
+ 12 (mười hai) túi nylon bên trong không chứa gì;
+ 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy;
+ 01 (một) cái kéo;
+ 01 (một) ống nhựa dài khoảng 10cm;
+ 06 (sáu) ống hút bằng nhựa;
+ 01 (một) túi xách có chữ Adidas.
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:
- 01 (một) cái điện thoại di động hiệu Vivo, màu đen; mã số: DT1/355BB/2020;
- 01 (một) cái điện thoại di động hiệu Nokia 1110i; mã số: DT2/355BB/2020;
- Số tiền 1.200.000 (một triệu hai trăm nghìn) đồng.
Giao trả cho bà TTKC 01 (một) chiếc xe hai bánh gắn máy; nhãn hiệu: Honda; số loại: BEAT; biển số: 59H1-YYY.YY; số khung: MH1JM2121JK148484; số máy: JM21E2128105; ghi chú: không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra; mã số: XMAY/355BB/2020;
(Tang vật vụ án theo Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2020/355 ngày 14/7/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, tiền theo Giấy nộp tiền mã số 01GTKT2/025 tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam Chi nhánh 10 – Thành phố Hồ Chí Minh – BL 168, 52) Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 334/2020/HS-ST ngày 25/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 334/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về