Bản án 334/2020/HSPT ngày 28/12/2020 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 334/2020/HSPT NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 333/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo Nguyễn Xuân M về tội “Cố ý gây thương tích”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2020/HS-ST ngày 21/9/2020, của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân M - Sinh năm 1990, tại tỉnh Hà Tĩnh; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không:

Con ông Nguyễn Xuân L (đã chết) và bà Phan Thị T, sinh năm 1964:

Có vợ: Phan Thị Y, sinh năm 1993 và có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2013, con nhỏ nhất sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không:

Nhân thân: Ngày 25/3/2014, bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 04 năm 06 tháng tù giam về tội “Cố ý gây thương tích” (tại Bản án số 16/2014/HSST). Ngày 31/8/2015, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù - Bị cáo đang tại ngoại, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Tiến T - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước Đắk Lắk.

- Người bị hại: Anh Dương Thanh T, sinh năm: 1996.

Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 19/3/2020, Nguyễn Xuân M đến quán nhậu C của ông Huỳnh Thanh H tại thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để mua trứng vịt lộn về ăn. Lúc này, tại quán có Dương Thanh T, Nguyễn V và một số người khác đang ngồi uống rượu cùng nhau, thì M lại ngồi uống rượu cùng. Khoảng 30 phút sau, M nhắc lại chuyện mâu thuẫn trước đây với T thì giữa hai người xảy ra cãi vã xô xát nhau. Lúc này, T đứng dậy thách thức M: “Ngon thì đi ra ngoài sô lô”, rồi T đi ra ngoài trước. Thấy vậy, M đi ra ngoài để đánh nhau với T, khi đi đến trước cửa ra vào của quán thì T nói: “Thằng bám váy vợ”, nghe vậy M bực tức nên lấy 02 vỏ chai bia đập vào nhau cho hai chai bia bị vỡ phần đáy chai, rồi cầm hai cổ chai bia chạy ra đuổi đánh T. T bỏ chạy được khoảng 10m thì dừng lại, M dùng chân phải đá T một cái từ phía sau nhưng không trúng, M cầm vỏ chai bia đâm 01 cái trúng vào lưng của T thì T ngã xuống đường. Thấy T nằm ngửa trên đường thì M xông đến đè lên người T, rồi dùng tay phải cầm vỏ chai bia đâm liên tiếp từ phải qua trái khoảng 03 cái vào vùng mặt phía bên trái của T. Bị đánh, T ôm người vật M nằm ngửa xuống đường, M cầm hai vỏ chai bia đâm 03 - 04 cái vào người T theo hướng từ dưới lên trên. Cùng lúc này, được mọi người đến can ngăn đưa T đi điều trị thương tích còn M về nhà ngủ.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 350/TgT-TTPY ngày 27/3/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Dương Thanh T do thương tích gây nên hiện tại là 22%. Vật tác động: Vật có cạnh sắc. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số: 438/TgT-TTPY ngày 23/4/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 22%.

Vật chứng vụ án: 02 cục vữa hồ đã khô, 01 mảnh ngói vỡ, 01 cổ chai bia, 25 mảnh vỡ thủy tinh, 01 ghế nhựa bị gãy 01 chân và chân ghế nhựa.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 48/2020/HS-ST ngày 21/9/2020, của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk, đã QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân M phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Nguyễn Xuân M 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 02/10/2020, bị cáo Nguyễn Xuân M có làm đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tại cơ quan điều tra và vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Tại phiên tòa đại điện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và xác định: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Xuân M về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 01 năm 09 tháng tù là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Xuân M về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, luật sư không có ý kiến gì mà chỉ phân tích các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo để khi nghị án Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là lao động chính trong gia đình, mặc dù gia đình thuộc hộ cận nghèo nhưng bị cáo đã cùng gia đình bồi thường thiệt hại để khắc phục hậu quả xảy ra cho người bị hại và cũng được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bên cạnh đó, nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội là do một phần lỗi của người bị hại. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s, khoản 1, 2 Điều 51 và khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm mức hình phạt tù cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sớm trở về với gia đình và xã hội.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận: Vào ngày 19/3/2020 tại thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, do mâu thuẫn trong lúc ngồi uống rượu nên Nguyễn Xuân M đã dùng vỏ hai chai bia đâm anh Dương Thanh T, làm anh T bị thương tích 22%.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Xuân M về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét mức hình phạt 01 năm 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Xét thấy bị cáo phạm tội cũng có lỗi một phần của bị hại T trong lúc xảy ra cãi vã xô xát nhau, bị hại đã thách thức nói bị cáo M “Ngon thì đi ra ngoài sô lô” và khi bị cáo M ra đi đến trước cửa ra vào của quán thì bị hại T lại tiếp tục nói xúc phạm bị cáo: “Thằng bám váy vợ” làm cho bị cáo bị kích động mạnh tinh thần thêm bực tức mới gây ra hậu quả bị cáo M dùng vỏ hai chai bia đâm bị hại T bị thương tích 22%, Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là thiếu sót. Mặt khác, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã bồi thường toàn bộ chi phí cho bị hại, bị hại đã làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận đơn kháng cáo giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

Từ những phân tích nhận định trên, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng về phần hình phạt.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do được chấp nhận đơn kháng cáo nên bị cáo Nguyễn Xuân M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Xuân M, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2020/HSST ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

- Áp dụng Điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự; điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Nguyễn Xuân M 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[3] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

 [4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

317
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 334/2020/HSPT ngày 28/12/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:334/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về