Bản án 333/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

 BẢN ÁN 333/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 329/2019/HSST ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 329/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Minh T, sinh năm 1976 tại tỉnh Nam Định. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số xx đường Đ, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số nhà xx đường L, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 3/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Vũ Thụy T và bà Trần Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 23-5-2019 Công an phường Cửa Bắc – thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền về hành vi “Trộm cắp tài sản”; ngày 25-8- 2019 Công an phường Trần Đăng Ninh – thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; nhân thân: Ngày 02-8-2007 đi cơ sơ cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng tại huyện Ba Vì - thành phố Hà Nội, ngày 28-02-2014 Công an phường Cửa Nam – thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản”, ngày 29-11-2018 Công an phường Cửa Nam – thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; tạm giữ từ ngày 06-9-2019 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 20 phút ngày 06-9-2019, tổ công tác Công an phường Trần Đăng Ninh - thành phố Nam Định phối hợp cùng lực lượng bảo vệ tổ dân phố xuống nhà các đối tượng trên địa bàn phường Trần Đăng Ninh, thành phố Nam Định để thăm hỏi và cảm hóa giáo dục. Khi tổ công tác đi đến Số nhà xx đường L, phường T, thành phố N phát hiện cửa nhà tầng 1 mở không thấy ai trong nhà, tổ công tác đi lên phòng ngủ tầng 2 thấy T đang ngồi một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, T đã thả từ trên tay trái xuống nền nhà 01 gói nhỏ giấy bạc màu trắng, tổ công tác đã thu giữ kịp thời, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng và mời người làm chứng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

Bản kết luận giám định số 870/GĐKTHS ngày 10-9-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy bạc màu trắng thu giữ của Vũ Minh T được niêm phong gửi giám định là ma tuý; loại ma tuý: Heroine; tổng khối lượng mẫu: 0,150 gam.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Minh T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy bị thu giữ trên như sau: Khoảng 07 giờ ngày 06-9-2019, T đi từ nhà đến khu vực ngõ xx đường Đ, phường Cửa Bắc, thành phố Nam Định mua của một người đàn ông (không rõ lý lịch, địa chỉ) 01 gói ma túy với giá 50.000 đồng, cầm trên tay trái đi về nhà lên phòng ngủ tầng 2 để sử dụng thì bị, phát hiện và bắt giữ như đã nêu trên.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho T, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận, cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Bản cáo trạng số 332/CT-VKSTPNĐ ngày 15-11-2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Vũ Minh T tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình và khai nguyên nhân bị cáo phạm tội do bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Vũ Minh T về tội danh, điều luật như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Minh T từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2] Khoảng 07 giờ 20 phút ngày 06-9-2019, Vũ Minh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,150 gam heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ tại Số nhà xx đường L, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Vũ Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

4.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

4.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

4.3. Về hình phạt:

Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo T có nhân thân xấu nhiều lần bị xử phạt hành chính trong đó có 2 tiền sự bị xử phạt hành chính chưa hết thời hạn nhưng bị cáo không sửa chữa mà có hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy cần ấn định cho bị cáo mức hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy bị thu giữ trong phong bì niêm phong số 870/GĐKTHS là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[7] Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Minh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Vũ Minh T 24 (hai mươi tư) tháng tù.

- Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 06-9-2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 870/GĐKTHS.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Vũ Minh T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi hành án dân sự: Bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 333/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:333/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về