TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 332/2020/DSST NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Củ Chi -Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 239/2019/TLST-DS ngày 17 tháng 4 năm 2019 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 352/2020/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 291/2020/QĐST-DS ngày 22 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V Địa chỉ: 89 L, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Chí D; chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Hồng L; chức vụ: Nhân viên.
Địa chỉ: 89/25 đường số A, phường B, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Có mặt)
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Ngọc A, sinh năm: 1986 Địa chỉ: Tổ 94B, ấp P, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện nộp ngày 21/3/2019, bản tự khai ngày 22/9/2020, tại phiên tòa cùng các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn đã giao nộp cho Toà án, nguyên vào ngày 10/10/2013, Ngân hàng Thương mại Cổ phần V và bà Nguyễn Ngọc A có ký hợp đồng tín dụng số 20131009-500000-0012 để vay số tiền 17.850.000 (Mười bảy triệu tám trăm năm mươi ngàn) đồng, mục đích tiêu dùng cá nhân, phương thức cho vay: Cho vay trả góp. Theo thỏa thuận, bà A có trách nhiệm trả chậm trong thời hạn 24 tháng, hàng tháng trả số tiền 1.141.000 đồng, tháng cuối cùng trả 1.140.000 đồng, bắt đầu trả từ ngày 14/11/2013.
Quá trình thực hiện hợp đồng, bà A trả được 09 lần với tổng số tiền là 9.983.000 đồng. Kể từ ngày 09/10/2019 đến nay bà A không thanh toán thêm bất kì khoản nào mặc dù được Ngân hàng đã nhắc nhở nhiều lần.
Do bà A vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong thỏa thuận của hợp đồng tín dụng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của Ngân hàng, do vậy Ngân hàng nộp đơn khởi kiện tại Tòa án và yêu cầu Tòa án xét xử buộc bà A phải thanh toán phần nghĩa vụ còn lại tính tới ngày xét xử là 17.400.000 đồng, trong đó, nợ gốc là 11.030.173 đồng, tiền lãi là 6.369.827 đồng.
Bị đơn bà Nguyễn Ngọc A đã được Toà án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt không rõ lý do. Do vậy, Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Căn cứ đơn khởi kiện ngày 21/3/2019, nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần V khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Ngọc A phải trả số tiền còn nợ tính đến ngày ngày 22/9/2020 là 17.400.000 đồng, trong đó, nợ gốc là 11.030.173 đồng, tiền lãi là 6.369.827 đồng. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết là tranh chấp về hợp đồng dân sự hợp đồng tín dụng được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Bị đơn bà Nguyễn Ngọc A có nơi cư trú tại ấp P, xã P, huyện C, Thành phồ Hồ Chí Minh. Do vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân huyện Củ Chi giải quyết là đúng thẩm quyền.
Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà bị đơn vẫn vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ gốc và lãi là 18.900.087 đồng. Tuy nhiên, tại phiên toà, nguyên đơn xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn thanh toán toàn bộ số tiền còn nợ cho đến ngày 22/9/2020 là 17.400.000 đồng, trong đó, nợ gốc là 11.030.173 đồng, tiền lãi là 6.369.827 đồng; thời gian và cách trả: Trả một lần ngay khi án phát sinh hiệu lực pháp luật, nằm trong phạm vi khởi kiện ban đầu, nên chấp nhận.
Thời hiệu khởi kiện: Các đương sự không yêu cầu áp dụng thời hiệu, nên Hội đồng xét xử không áp dụng.
[2] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Ngày 10/10/2013, Ngân hàng Thương mại Cổ phần V và bà Nguyễn Ngọc A đã thỏa thuận ký hợp đồng tín dụng số: 20131009-500000-0012 với số tiền vay là 17.850.000đồng, mục đích vay tiêu dùng, phương thức trả: Trả chậm trong thời hạn 24 tháng, hàng tháng bà A có trách nhiệm trả số tiền 1.141.000 đồng, tháng cuối cùng trả 1.140.000 đồng, bắt đầu trả vào ngày 14/11/2013.
Quá trình thực hiện hợp đồng, bà A đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với hợp đồng tín dụng nêu trên, mặc dù Ngân hàng Thương mại Cổ phần V đã nhiều lần nhắc nhở nhưng bà A vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V mà tiếp tục vi phạm. Do vậy, Ngân hàng Thương mại Cổ phần V đã nộp đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Củ Chi.
Qua trình giải quyết vụ kiện, bị đơn vắng mặt không rõ lý do mặc dù đã được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, đồng thời bị đơn không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình và cũng không cung cấp bất kì tài liệu, chứng cứ nào cho Toà để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để giải quyết vụ kiện.
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, Hội đồng xét xử xét thấy bà Nguyễn Ngọc A đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đã được thoả thuận tại hợp đồng tín dụng số: 20131009-500000-0012 ngày 10/10/2013 được xác lập giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần V và bà A, do vậy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở.
[3] Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015, nên buộc bị đơn phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 357, 463, 466 và 470 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật các tổ chức tín dụng; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc bà Nguyễn Ngọc A có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V số tiền gốc và lãi tính đến ngày 22/9/2020 là 17.400.000 (Mười bảy triệu bốn trăm ngàn) đồng, trong đó, nợ gốc là 11.030.173 đồng, nợ lãi là 6.369.827 đồng).
Thời gian và cách trả: Trả một lần ngay khi án phát sinh hiệu lực pháp luật. Kể từ ngày 23/9/2020 cho đến ngày bà A thanh toán hết số tiền trên cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V thì bà A phải trả thêm tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số: 20131009-500000-0012 ngày 10/10/2013.
Địa điểm thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.
[2] Án phí dân sự sơ thẩm số tiền: 870.000 (Tám trăm bảy mươi ngàn) đồng, buộc bà Nguyễn Ngọc A phải chịu.
Hoàn trả lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 472.502 (Bốn trăm bảy mươi hai ngàn năm trăm lẻ hai) đồng theo biên lai thu số AA/2018/0013901 ngày 17 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ Chi.
[3] Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 332/2020/DSST ngày 30/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 332/2020/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về