Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 11/03/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 11 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 233/2020/HNGĐ- ST ngày 01 tháng 12 năm 2020, về việc '' Tranh chấp ly hôn ,nuôi con chung", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2021/QĐ-ST ngày 18/02/2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Th, sinh ngày 14/01/1989.

ĐKHKTT : Đội 1, thôn C, xã K, huyện N, tỉnh Hải Dương.

Hiện ở : Khu Hạ 1, phường A, Thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh (vắng mặt). Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn : Ông Nguyễn Thanh H –Văn phòng luật sư B – Đoàn luật sư tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn : Anh Vũ Đức L, sinh ngày 13/11/1989.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh : Đội 1, thôn C, xã K, huyện N, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

Hiện đang lao động tại Hàn Quốc.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan : Ông Vũ Văn T, sinh năm 1956.

Địa chỉ : Đội 1, thôn C, xã K, huyện N, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Bùi Thị Th trình bầy: Chị và anh L được tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện N ngày 12/01/2009. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh L mải chơi không tu trí làm ăn dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm. Nhưng do chị nghĩ đến con nên cố chịu đựng, sống hòa thuận với anh L. Tháng 11/2018 anh L đi nước ngoài, thời gian đầu vợ chồng thường xuyên liên lạc, nhưng sau đó chị phát hiện anh L có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Từ tháng 8/2020 chị đưa hai con về thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh sinh sống cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L.

Về con chung: Vợ chồng có 2 con chung là Vũ Đức H, sinh ngày 10/10/2008 và Vũ Gia M, sinh ngày 21/3/2017. Hiện nay hai cháu đang ở với chị, ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cả hai con, yêu cầu anh L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị mỗi cháu 2.000.000đ/tháng. Sau đó, chị được biết anh L không có khả năng cấp dưỡng tiền nuôi con chung, nên chị đồng ý để anh L nuôi cháu H, còn chị nuôi cháu M. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Trong thời gian anh L không có ở Việt Nam, chị đồng ý để cháu H ở cùng với ông nội là Vũ Văn T.

Về tài sản chung: Chị và anh L không có, ly hôn không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án do chị Th không cung cấp được địa chỉ của anh Vũ Đức L tại Hàn Quốc nên Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã lấy lời khai của ông Vũ Văn T là bố đẻ anh L, đồng thời yêu cầu ông T cung cấp địa chỉ của anh L ở nước ngoài. Ông T xác định anh L hiện đang lao động tại Hàn Quốc, ông không biết địa chỉ của anh L ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh L thường xuyên liên lạc về cho ông. Ông T đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh L biết. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, ông đã thông tin cho anh L biết. Anh L có quan điểm đồng ý ly hôn, đề nghị giải quyết vắng mặt. Về con chung: do dịch bệnh, nên anh không có khả năng cấp dưỡng tiền nuôi con chung theo yêu cầu của chị Th là 2.000.000đ/tháng đối với mỗi con. Anh L đề nghị được nuôi cả hai con, tự nguyện không yêu cầu chị Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Nếu chị Th không đồng ý anh L xin nuôi một con, hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian không ở Việt Nam, anh L ủy quyền cho bố đẻ chăm sóc, nuôi dưỡng con chung của anh và chị Th. Ông T đồng ý nuôi con thay cho anh L trong thời gian anh không ở Việt Nam.

Cháu Vũ Đức H là con chung của anh L, chị Th có quan điểm xin được ở với bố khi bố mẹ ly hôn.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt và có quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, quan điểm của nguyên đơn có trong hồ sơ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị Th và anh L đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Th được ly hôn anh L; về con chung: giao cháu Vũ Đức H, sinh ngày 10/10/2008 cho anh L chăm sóc nuôi dưỡng, giao cháu Vũ Gia M, sinh ngày 21/3/201 cho chị Th chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong thời gian anh L không ở Việt Nam, tạm giao cháu H cho ông T chăm sóc nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Th không cung cấp được địa chỉ của anh L tại Hàn Quốc. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh L cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ. Quá trình giải quyết vụ án anh L có quan điểm ủy quyền cho ông T nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Vũ Đức H trong thời gian anh L không ở Việt Nam, vậy xác định ông T là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Chị Th, anh L và ông T có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Th và anh Vũ Đức L tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện N ngày 12/01/2009, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh L không tu trí làm ăn, vun đắp cho gia đình dẫn đến vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng khi chị Th cho rằng anh L đi nước ngoài, có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, dẫn đến hai bên mất niềm tin, không tìm thấy tiếng nói chung. Tháng 8/2020 chị Th đưa hai con về gia đình đẻ sinh sống, vợ chồng chấm dứt liên lạc với nhau. Nay chị Th xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn. Thông qua gia đình, anh L cũng có quan điểm đồng ý ly hôn, do vậy có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Th.

- Về con chung: Chị Bùi Thị Th và anh Vũ Đức L có hai con chung là Vũ Đức H, sinh ngày 10/10/2008 và Vũ Gia M, sinh ngày 21/3/2017. Ly hôn, ban đầu chị Th có nguyện vọng được nuôi cả hai con, yêu cầu anh L phải cấp dưỡng tiền nuôi mỗi con một tháng là 2.000.000đ. Tuy nhiên sau đó chị Th đồng ý với quan điểm của anh L là giao cho mỗi người nuôi một con. Cụ thể chị nuôi cháu M còn anh L nuôi cháu H. Cháu H cũng có nguyện vọng được ở với bố khi bố mẹ ly hôn. Xét thực tế, tuy anh L không ở Việt Nam, nhưng ông Vũ Văn T là bố đẻ của anh L có điều kiện và đồng ý nuôi dưỡng, chăm sóc cháu H cho anh L trong thời gian anh L không ở Việt Nam, điều này cũng phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi bên nên có căn cứ giao cháu H cho anh L nuôi dưỡng, giao cháu M cho chị Th nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian anh L không ở Việt Nam, tạm giao cháu H cho ông Vũ Văn T là ông nội của cháu chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[3].Về án phí: Chị Bùi Thị Th phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị Th được ly hôn anh Vũ Đức L.

2.Về con chung: Giao cháu Vũ Gia M, sinh ngày 21/3/2017 cho chị Th Chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao cháu Vũ Đức H, sinh ngày 10/10/2008 cho anh L chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi. Trong thời gian anh L không ở Việt Nam, tạm giao cháu H cho ông Vũ Văn T chăm sóc nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị Th phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị Th đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0004788 ngày 26 tháng 11 năm 2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị Th đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị Th, ông Vũ Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Anh Vũ Đức L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 11/03/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về