Bản án 33/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN - TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 38/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:34/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2020 và Thông báo V/v thay đổi thời gian xét xử số 08/2020/TB-TA ngày 12 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Vũ Văn C, sinh năm 1992. Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Khu 7, phường P, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn N2 và bà Nguyễn Thị D1; Họ tên vợ: Đinh Thị B và có hai con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2020; Tiền sự: Không.

Tiền án: Tại Bản án số 55/2017/HS-ST ngày 18/8/2017 của TAND huyện Kinh Môn (nay là TAND thị xã Kinh Môn) xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 22/7/2018, chấp hành xong hình phạt tù, ngày 27/11/2017, chấp hành xong phần thi hành án dân sự của bản án (tiền án phí 200.000 đồng).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/3/2020 đến ngày 31/3/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi liên quan: Chị Đinh Thị Bích, sinh năm 1995 Địa chỉ: Khu 7, phường P, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương Có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: 1. Anh N1, sinh năm 1961 2. Chị Bùi Thị N, sinh năm 1959 Đều có địa chỉ: Khu 7, phường P, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.

Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ 30 phút ngày 28/3/2020, Vũ Văn C đi xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius biển số 34D1-288.79 đến khu vực ga Phú Thái, Kim Thành, Hải Dương mục đích mua ma túy “đá” để sử dụng. Tại đây, C gặp hỏi mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ, mua được 03 túi ma túy được đựng trong 03 túi nilon bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng với giá 400.000 đồng rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Tại nhà mình, C chia 01 túi ma túy (trong 03 túi ma túy vừa mua được) thành 03 phần cho vào 03 túi nilon. Sau đó, C cất giấu 02 túi ma túy vừa chia vào trong gối tại đầu giường ngủ của C, 01 túi ma túy còn lại cùng 02 túi ma túy đã mua được trước đó C cất trong túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô trên đi tìm chỗ để sử dụng. Đến 22 giờ cùng ngày, khi C đi đến khu 7, phường P, thị xã Kinh Môn thì bị Tổ công tác thuộc Công an phường P kết hợp với Công an thị xã Kinh Môn kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Thu giữ vật chứng, gồm: thu trong túi quần phía trước bên phải C đang mặc 03 túi nilon đều chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong ký hiệu M), 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha loại Sirius, BKS 34D1-288.79.

Hi 08 giờ 00 phút ngày 29/3/2020, tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Văn C, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Kinh Môn thu giữ trong gối tại đầu giường ngủ của Vũ Văn C 02 túi nilon bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong ký hiệu M1). C khai số ma túy trên là của C mua được vào tối ngày 28/3/2020 mục đích để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 182/KLGĐ-PC09 ngày 31/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu M, ghi thu của Vũ Văn C, gửi đến giám định tổng khối lượng là 0,599g là ma túy loại Methemphetamine. Methemphetamine nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Kết luận giám định số 183/KLGĐ-PC09 ngày 01/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu M1, ghi thu trong quá trình khám xét chỗ ở của Vũ Văn C, gửi đến giám định khối lượng là 1,948g là ma túy loại Methemphetamine. Methemphetamine nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius biển số 34D1-288.79, quá trình điều tra xác định là tài sản riêng của chị Đinh Thị Bích (là vợ C), Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Kinh Môn hiện đang quản lý.

Quá trình điều tra, Vũ Văn C đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người liên quan, người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Kinh Môn thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Tại cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 09/7/2020, VKSND thị xã Kinh Môn truy tố bị cáo Vũ Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vũ Văn C vẫn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu. Vị đại diện VKS thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Vũ Văn C từ 33 đến 36 tháng tù, thời hạn được tính từ ngày tạm giữ 28/3/2020.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người có quyền lợi liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Kinh Môn, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vũ Văn C đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản vụ việc, người làm chứng, vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu liên quan khác có trong hồ sơ. Nên có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 22 giờ ngày 28/3/2020, tại khu 7, phường P, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, Vũ Văn C có hành vi cất giấu trong túi quần phía trước bên phải đang mặc 0,599g ma túy loại Methemphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác thuộc Công an phường P kết hợp với Công an thị xã Kinh Môn phát hiện bắt quả tang. Cùng ngày tại chỗ ở của mình, Vũ Văn C có hành vi cất giấu 1,948 gam ma túy loại Methemphetamine mục đích để sử dụng. Tổng khối lượng ma túy là 2,547 gam Methamphetamine. Do vậy, VKSND thị xã Kinh Môn truy tố bị cáo Vũ Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

 

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Bản án số 55/2017/HS-ST ngày 18/8/2017 của TAND huyện Kinh Môn (nay là TAND thị xã Kinh Môn) xử phạt Vũ Văn C 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 22/7/2018, C chấp hành xong hình phạt tù, ngày 27/11/2017, C chấp hành xong phần thi hành án dân sự của bản án. C chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội do cố ý, nên C phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS là phù hợp. Song dù có xem xét, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đâu, với tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội, nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đảm bảo tính giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Trong vụ án, đối với người đàn ông bán chất ma túy cho C quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.

Đi với chị Đinh Thị Bích không biết C sử dụng xe mô tô biển số 34D1-288.79 đi mua chất ma túy và không biết C cất giấu ma túy tại chỗ ở nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với chị Bích.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét về điều kiện, nhân thân của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ trong túi quần phía trước bên phải C đang mặc 03 túi nilon đều chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong ký hiệu M), 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha loại Sirius, BKS 34D1- 288.79; khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Văn C, thu giữ trong gối tại đầu giường ngủ của Vũ Văn C 02 túi nilon bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong ký hiệu M1). Tại Kết luận giám định số 182/KLGĐ-PC09 ngày 31/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu M, ghi thu của Vũ Văn C, gửi đến giám định tổng khối lượng là 0,599g ma túy, loại Methemphetamine, hoàn lại đối tượng giám định là 0,483g Methemphetamine, được niêm phong số 182/KLGĐ-PC09. Tại Kết luận giám định số 183/KLGĐ-PC09 ngày 01/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu M1, ghi thu trong quá trình khám xét chỗ ở của Vũ Văn C, gửi đến giám định khối lượng là 1,948g là ma túy loại Methemphetamine, hoàn lại đối tượng giám định là 1,837g Methemphetamine, được niêm phong số 183/KLGĐ- PC09. Xét đây là những mẫu vật hoàn lại sau giám định thuộc vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu cho hủy bỏ là phù hợp.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius biển số 34D1-288.79, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản riêng của chị Đinh Thị Bích (là vợ C), C sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy để sử dụng, chị Bích không biết nên cần tuyên trả cho chị Bích là phù hợp.

[6] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu nộp án phí và lệ phí Tòa án thì bị cáo Vũ Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm a,b khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS; khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu nộp án phí và lệ phí Tòa án.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vũ Văn C 33 tháng tù, thời hạn được tính kể từ ngày tạm giữ từ ngày 28/3/2020.

Về xử lý vật chứng: Tuyên tịch thu số ma túy có trong phong bì ghi số 182/KLGĐ-PC09;183/KLGĐ-PC09 do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương cho hủy bỏ.

Tuyên trả chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius biển số 34D1-288.79 cho chị Đinh Thị Bích.

(Có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/7/2020 tại Chi cục thi hành dân sự thị xã Kinh Môn).

Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Văn C phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tòa án báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chỉ được kháng cáo những vấn đề liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về