Bản án 33/2020/HS-PT ngày 26/05/2020 về tội tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 33/2020/HS-PT NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 44/2020/TLPT-HS ngày 16 tháng 3 năm 2020 đối với các bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn C do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2020/HS-ST ngày 17/02/2020 của Tòa án nhân huyện YP, tỉnh Bắc Ninh.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Văn T, sinh năm 1995; ĐKHKTT: Thôn YL, xã YT, huyện YP, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1959 và bà Lê Thị B, sinh năm 1964; có vợ: Lê Thị Trà M, sinh năm 1994; có 01 con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/8/2019 đến 27/8/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” - Có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Văn C, sinh năm 1987; ĐKHKTT: Thôn YL, xã YT, huyện YP, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1953; có vợ là Nguyễn Thị Th, sinh năm 1990 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: tại bản án số 06/2014/HSST ngày 22/01/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt Nguyễn Văn C 05 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Đặc xá tha tù ngày 31/8/2015, chấp hành xong án phí ngày 29/7/2014.

Bị cáo tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 09 bị cáo khác không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo của các bị cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 8 năm 2019, Nguyễn Văn T bắt đầu làm chủ đề, nhận bảng cáp ghi số lô số đề của các thư ký ghi số lô, số đề, gồm: Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Thụ, Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Thị Huyền, ngoài ra T còn trực tiếp nhận ghi số lô, số đề cho người chơi để tổ chức đánh bạc, đánh bạc dưới hình thức chơi số lô, số đề. T thỏa thuận với các thư ký: Hàng ngày các thư ký ghi (bán) số lô, số đề, lô xiên cho người chơi, sau đó nộp bảng cáp ghi số lô, số đề, lô xiên ghi được của ngày hôm đó cho T bằng hình thức nhắn tin gửi bảng cáp đến điện thoại di động của T qua mạng xã hội Zalo, số điện thoại của T là 0982.570.686, đăng ký tài khoản Zalo là “T OK”. Khi nhận bằng cáp đề T thu của các thư ký 82% tổng số tiền ghi số đề và lô xiên, số lô là 21.700 đồng/1 điểm. Các thư ký trực tiếp thu tiền của người chơi người mua) số lô, số đề, trực tiếp trả tiền cho người chơi trúng số lô, số đề. Việc thanh toán tiền giữa T và các thư ký sẽ thực hiện vào ngày hôm sau. Những người ghi số lô, số đề với T có thể trực tiếp gặp T để ghi hoặc gửi tin nhắn cho T để ghi, khi nhận ghi số lô, số đề cho người chơi, T thu 22.000 đồng/l điểm lô.

Ngày 20/8/2019, T nhận ghi của Hoàng Thùy Trang 2.460.000 đồng tiền số đề, Trang trúng 01 số đề với số tiền chơi là 50.000 đồng, T phải trả Trang số tiền thắng bạc là 4.000.000 đồng. Tổng số tiền T và Trang đánh bạc ngày 20/8/2019 là 6.460.000 đồng.

Ngày 22/8/2019, Nguyễn Văn T đã nhận các bảng cáp đề của các thư ký đề: Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Thụ, Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Thị Huyền. Tổng số tiền ghi số lô, số đề trong bảng cáp của Tuấn là 11.365.000 đồng, trong đó có Nguyễn Văn Tiến ghi số lô với Tuấn số tiền là 6.510.000 đồng. Tổng số tiền ghi số lô, số đề trong cáp của Thụ là 16.625.000 đồng. Tổng số tiền ghi số lô, số đề trong cáp của Hưng là 36.465.000 đồng. Tổng số tiền ghi số lô, số đề trong cáp của Huyền là 8.240.000 đồng. Tổng số tiền ghi số lô, đề T nhận của các thư ký ghi số lô, số đề là: 72.695.000 đồng. Ngày 22/8/2019 T nhận ghi số lô số đề cho người chơi, gồm: Nguyễn Văn Chiển: 5.155.000 đồng; Nguyễn Văn Thành: 12.096.700 đồng: Đỗ Thị Nga: 11.827.600 đồng. T ghi các số lô, số đề T muốn chơi vào 01 bảng cáp đề rồi chuyển cho Nguyễn Văn C với số tiền là 19.694.000 đồng để T đánh bạc với Nguyễn Văn C. Tổng số tiền T nhận ghi số lô, đề cho người chơi và T đánh bạc với C là 48.773.300 đồng. Tổng số tiền dùng đánh bạc, tổ chức đánh bạc của Nguyễn Văn T ngày 22/8/2019 là 121.468.300 đồng.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 điện thoại Iphone XS Max màu vàng của Nguyễn Văn T; 01 điện thoại Sam sung màu xanh nước biển và 4.500.000 đồng của Nguyễn Văn Thụ, 01 điện thoại Sam sung màu đen của Nguyễn Văn Tuấn, 01 điện thoại Sam sung màu đen của Nguyễn Văn Tiến.

Với nội dung trên, Bản án sơ thẩm số 09/2020/HSST ngày 17/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện YP đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”. Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321: điểm c khoản 1, 3 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52: Điều 38, Điều 55 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn T 16 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 40 tháng tù về tội “Đánh bạc”; Tổng hợp hình phạt của cả hai tội là 56 (năm mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tình từ ngày bắt để thi hành án, nhưng được trừ thời hạn tạm giữ từ 22/8/2019 đến 27/8/2019. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321: điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn C 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 (mười triệu) đồng.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về tội danh, hình phạt đối với 09 bị cáo khác trong vụ án, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 26/02/2020 bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt. Ngày 26/02/2020 bị cáo Nguyễn Văn C kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, các bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi của mình như bản án sơ thẩm đã xét xử. Các bị cáo đều thừa nhận có tội. Bị cáo T xin được giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo C xin được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên toà phát biểu ý kiến: sau khi xem xét nội dung vụ án, xét thấy: đối với hành vi của bị cáo T, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 BLHS là đúng, tuy nhiên, xác định số tiền bị cáo Tổ chức đánh bạc là 121.468.3000 đồng là không chính xác. Bởi vì, ngày 22/8/2019, Nguyễn Văn T đã nhận các bảng cáp đề của các thư ký đề là Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Thụ, Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Thị Huyền với tổng số tiền ghi số lô, số đề là: 72.695.000 đ000. Nên phải xác định số tiền này là số tiền bị cáo T tổ chức cho các thư ký đánh bạc. Đối với tội “Đánh bạc” Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội Đánh bạc với tổng số tiền cũng là 121.468.3000 đồng và quy kết bị cáo phạm tội Đánh bạc theo điểm b khoản 2 Điều 321 BLHS là không đúng, vì trong ngày 22/8/2019 T trực tiếp ghi số lô số đề cho người chơi, và T ghi các số lô, số đề T muốn chơi vào 01 bảng cáp đề rồi chuyển cho Nguyễn Văn C với số tiền là 19.694.000 đồng để T đánh bạc với Nguyễn Văn C. Tổng số tiền T nhận ghi số lô, đề cho người chơi và T đánh bạc với C là 48.773.300 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS. Xét kháng cáo của bị cáo T là có căn cứ, đồng thời bị cáo đã nộp thêm số tiền 10 triệu đồng theo biên lai thu tiền số AA/2014/0007141 ngày 19/5/2010 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh nên đề nghị HĐXX xem xét giảm hình phạt đối với tội “Đánh bạc” cho bị cáo T từ 30- 36 tháng tù và giữ nguyên mức án đối với tội “Tổ chức đánh bạc”.

Đi với bị cáo C, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo phạm tội “Đánh bạc” và đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giao nộp Biên lai thu tiền số AA/2014/0007137 ngày 12/5/2020 thể hiện bị cáo đã nộp thêm số tiền 10.200.000đ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện YP, tỉnh Bắc Ninh, đồng thời bị cáo được chính quyền địa phương xác nhận là gia đình chính sách nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Xét thấy bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Đồng thời, bản án số 06/2014/HSST ngày 22/01/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt Nguyễn Văn C 05 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Bị cáo đã được xóa án tích. Vì vậy, đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ điều kiện giáo dục đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Tại phiên tòa các bị cáo T và C đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết. Lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với lời trình bày của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 22/8/2019, Nguyễn Văn T đã có hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc trái phép dưới hình thức ghi số lô, số đề sát phạt được thua bằng tiền, thu lợi bất chính. Bị cáo tổ chức cho các thư ký đề trực tiếp ghi lô đề với con đề (người chơi đánh bạc), nhận tiền của người chơi sau đó chuyển lại bảng cáp đề cho bị cáo và trả % hoa hồng cho các thư ký. Tổng số tiền bị cáo đã nhận các bảng cáp đề của các thư ký đề là: 72.695.000 đồng. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cầu thành tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 BLHS. Bản án sơ thẩm nhận định bị cáo Tổ chức đánh bạc với tổng số tiền là 121.468.300 đồng là không chính xác. Đồng thời, trong ngày 22/8/2019 bị cáo T còn trực tiếp ghi số lô số đề cho người chơi và T ghi các số lô, số đề T muốn chơi vào 01 bảng cáp đề rồi chuyển cho Nguyễn Văn C với số tiền là 19.694.000 đồng để T đánh bạc với Nguyễn Văn C. Tổng số tiền T nhận ghi số lô, đề cho người chơi và T đánh bạc với C là 48.773.300 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Đánh bạc” với số tiền 48.773.300 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS. Bản án cấp sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội đánh bạc với số tiền là 121.468.300 đồng theo điểm b khoản 2 Điều 321 BLHS là không đúng.

Đi với hành vi của bị cáo C nhận ghi số lô, số đề của bị cáo T với số tiền 19.694.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS. Bản án sơ thẩm quy kết bị cáo phạm tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương, lôi kéo nhiều người tham gia, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân và là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Do vậy cần phải xử lý nghiêm các bị cáo bằng luật hình để đảm bảo răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo thì thấy:

Đi với bị cáo C: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã xuất trình Biên lai thu tiền số AA/2014/0007137 ngày 12/5/2020 thể hiện bị cáo đã nộp thêm số tiền 10.200.000đ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện YP, tỉnh Bắc Ninh, đồng thời bị cáo được chính quyền địa phương xác nhận là gia đình chính sách và bị cáo có bố đẻ là thương binh hạng 3/4 nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ mới. Đồng thời, bản án số 06/2014/HSST ngày 22/01/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt Nguyễn Văn C 05 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Bị cáo đã được xóa án tích. Vì vậy, HĐXX xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp với điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo theo quy định của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối C hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo và cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

Đi với bị cáo T đã phạm 2 tội là “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”. Như đã nhận định trên, mặc dù bản án sơ thẩm cũng xác định không đúng số tiền bị cáo tổ chức cho các thư ký ghi số lô số đề nhưng mức hình phạt đã tuyên đối với tội Tổ chức đánh bạc là phù hợp, không nặng nên không có căn cứ giảm hình phạt cho bị cáo đối với tội này. Riêng đối với tội “Đánh bạc”, HĐXX phúc thẩm căn cứ hành vi phạm tội của bị cáo và xác định bị cáo phạm tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS. Đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã nộp thêm số tiền 10 triệu đồng theo biên lai thu tiền số AA/2014/0007141 ngày 19/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện YP, tỉnh Bắc Ninh. Do đó, HĐXX giảm mức hình phạt cho bị cáo 20 tháng tù. Bị cáo một lúc phạm 2 tội, nên cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên HĐXX không xem xét;

[3] Về án phí: các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, sửa bản án sơ thẩm;

Áp dụng khoản 1 Điều 321: điểm c khoản 1, 3 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52: Điều 38, Điều 55 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn T 16 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 20 tháng tù về tội “Đánh bạc”; Tổng hợp hình phạt của cả hai tội buộc bị cáo phải chấp hành là 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tình từ ngày bắt để thi hành án, nhưng được trừ thời hạn tạm giữ từ 22/8/2019 đến 27/8/2019. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng sung Ngân sách Nhà nước. (Xác nhận bị cáo T đã nộp 10.000.000đ theo biên lai thu số AA/2014/0007141 ngày 19/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện YP, tỉnh Bắc Ninh. Tạm giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.

2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C, sửa bản án sơ thẩm;

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321: điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn C 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 30 tháng tình từ ngày tuyên án phúc thẩm. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 (Mười triệu) đồng sung Ngân sách Nhà nước. (Xác nhận bị cáo đã nộp số tiền 10.200.000 đồng theo biên lai thu số AA/2014/0007137 ngày 12/5/2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh). Tạm giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.

Giao bị cáo Nguyễn Văn C cho UBND xã YT, huyện YP, tỉnh Bắc Ninh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Các bị cáo phải không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-PT ngày 26/05/2020 về tội tổ chức đánh bạc

Số hiệu:33/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về