TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 33/2020/HS-PT NGÀY 08/07/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 08 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2020/TLPT-HS, ngày 28 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo Phạm Đắc T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST, ngày 21 tháng 4 năm 2020 của Tòa án nhân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.
- Bị cáo có kháng cáo: Phạm Đắc T, sinh ngày 21 tháng 01 năm 1985 tại huyện A, thành phố H; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn Đ, xã A, huyện A, thành phố H; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đắc L và bà Nguyễn Thị T (đã chết); có vợ là Lê Thị L và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 25-12-2019 đến ngày 08-01-2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp bão lĩnh đến nay; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Đắc T lái xe cho công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và dịch vụ vận tải T, có địa chỉ tại thành phố H, để chở hàng nông sản từ Việt Nam sang Trung Quốc. Ngày 17-12-2019, Phạm Đắc T lái xe Conterner kéo theo Rơmóoc chở quả Xoài từ thành phố H xuất cảnh sang Trung Quốc tại cửa khẩu T thuộc huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 18-12-2019, sau khi làm thủ tục trả hàng xong bên Trung Quốc (không biết địa danh, cách biên giới Trung Quốc - Việt Nam khoảng 60km), Phạm Đắc T đi đến một cửa hàng bán pháo chọn mua hết 2.000.000 đồng tiền Việt Nam để mang về nhà đốt dịp Tết Nguyên đán; người phụ nữ bán pháo (không biết nhân thân người này) cho số pháo Phạm Đắc T vừa chọn vào 01 bao tải dứa màu trắng và 10 túi nilon màu đen. Phạm Đắc T vận chuyển số pháo này cất giấu vào gầm xe Conterner và điều khiển về Việt Nam. Đến khoảng 10 giờ 20 phút ngày 19 tháng 12 năm 2019, Phạm Đắc T làm thủ tục nhập cảnh vào Việt Nam tại cửa khẩu T thì bị Tổ công tác Đồn Biên phòng T phối hợp với Công an huyện Văn Lãng phát hiện, bắt quả tang số pháo Phạm Đắc T vận chuyển cất giấu trong gầm xe Conterner.
Tại Biên bản xác định trọng lượng tang vật lập hồi 14 giờ ngày 19-12-2019 của Tổ công tác, xác định tang vật nghi là pháo nổ bị thu giữ có tổng trọng lượng là 39kg.
Tại Kết luận giám định số 27/KL-PC09, ngày 23-12-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Mẫu vật gửi giám định đều chứa thuốc pháo, khi đốt đều gây ra tiếng nổ.
Tại Bản án số: 22/2020/HS-ST, ngày 21-4-2020 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định: Căn cứ vào điểm k khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù về tội Vận chuyển hàng cấm, được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam 21 (hai mươi mốt) ngày (từ ngày 19-12-2019 đến ngày 08-01-2020), thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 28-4-2020, bị cáo Phạm Đắc T kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin hưởng án treo.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên là hợp lệ. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phạm Đắc T về tội Vận chuyển hàng cấm đúng người, đúng tội, không oan. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng về nhân thân, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo có cung cấp đơn xin giảm án có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng về việc bị cáo luôn chấp hành tốt các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, ông nội bị cáo là liệt sỹ và hiện nay gia đình đang thờ cúng Liệt sỹ. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới phát sinh tại cấp phúc thẩm được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST, ngày 21-4-2020 của Tòa án nhân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn; xử giữ nguyên mức án sơ thẩm và chuyển thành hình phạt tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung của Bản án sơ thẩm. Do đó, có căn cứ để xác định: Vào khoảng 10 giờ 20 phút ngày 19-12-2019, tại cửa khẩu T, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo Phạm Đắc T có hành vi vận chuyển hàng cấm (pháo nổ) với tổng trọng lượng 39 kg từ Trung Quốc vào Việt Nam, mục đích để đốt dịp Tết Nguyên đán. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào điểm k khoản 2 Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Đắc T về tội Vận chuyển hàng cấm là đúng người, đúng tội, không oan.
[2] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng về nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Phạm Đắc T. Do đó, mức hình phạt 02 năm 09 tháng tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo Phạm Đắc T là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo bị cáo có xuất trình đơn xin giảm án có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng xác nhận hoàn cảnh gia đình của bị cáo, bị cáo có ông nội là liệt sỹ, bố bị cáo tham gia quân đội và được hưởng chế độ trợ cấp; hiện nay gia đình bị cáo đang thờ cúng liệt sỹ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới phát sinh tại cấp phúc thẩm mà bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét thấy, bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú; có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong thời gian tại ngoại vừa qua không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật; có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, không ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.
[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo khoản 2 Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm h khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH, 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[5] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ điểm k khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Đắc T về việc xin hưởng án treo, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST, ngày 21 tháng 4 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về phần hình phạt đối với bị cáo, cụ thể:
Xử phạt bị cáo Phạm Đắc T 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo về tội Vận chuyển hàng cấm; Thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, ngày 08/7/2020.
Giao bị cáo Phạm Đắc T cho Ủy ban nhân dân xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí:
Bị cáo Phạm Đắc T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Về hiệu lực pháp luật: Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ngày 08 tháng 7 năm 2020./
Bản án 33/2020/HS-PT ngày 08/07/2020 về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 33/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về