TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 33/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 237/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp "Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 237/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 75/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Cảnh L, sinh năm: 1970 Địa chỉ: K495/136 đường N, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1981 Địa chỉ: K495/136 đường N, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
-Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Cảnh L trình bày:
Về hôn nhân: ông Nguyễn Cảnh L và bà Nguyễn Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H (cũ), huyện H, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 106, Quyển số 01/2003 ngày 06/6/2003. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại tổ 29 phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông không tin tưởng bà Nguyễn Thị H về mặt tình cảm, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Ông Nguyễn Cảnh L đã nhiều lần nộp đơn xin ly hôn, sau đó ông rút đơn để vợ chồng đoàn tụ, tuy nhiên đến nay quan hệ hôn nhân của ông bà vẫn không được cải thiện, vợ chồng vẫn còn sống chung một nhà nhưng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, nay ông yêu cầu Toà án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Nguyễn Thị H.
Về con chung: ông Nguyễn Cảnh L xác định ông và bà Nguyễn Thị H có 02 con chung là Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 18/01/2005 và Nguyễn Thị Phương D, sinh ngày 03/10/2008. Hiện nay con chung đang sống với cả hai ông bà. Khi Tòa án giải quyết ly hôn ông yêu cầu được nuôi 02 con chung, không yêu cầu bà Nguyễn Thị H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: ông Nguyễn Cảnh L xác định ông và bà Nguyễn Thị H tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về nợ chung: Ông Nguyễn Cảnh L xác định vợ chồng ông không có nợ chung.
-Bị đơn bà Nguyễn Thị H đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, tuy nhiên bà vẫn vắng mặt, không có ý kiến.
-Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng:
Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã tuân theo đúng pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử.
Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
Thư ký đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại khoản 5 Điều 51 Bộ luật tố tụng dân sự.
Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến thời điểm mở phiên tòa, người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt đã không chấp hành các quy định của pháp luật.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Cảnh L đối với bà Nguyễn Thị H: Về hôn nhân: Cho ông Nguyễn Cảnh L được ly hôn với bà Nguyễn Thị H. Về con chung: Giao 02 con chung Nguyễn Thị Quỳnh A và Nguyễn Thị Phương D cho ông Nguyễn Cảnh L trực tiếp nuôi dưỡng, ông Nguyễn Cảnh L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập đến; Về tài sản chung: Ông Nguyễn Cảnh L xác định vợ chồng tự thỏa thuận và nợ chung: ông Nguyễn Cảnh L xác định không có, bà Nguyễn Thị H vắng mặt không có ý kiến nên đề nghị Tòa án không giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn bà Nguyễn Thị H cư trú tại phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.3]. Bị đơn bà Nguyễn Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do nên Hội đồng xét xử vắng bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung vụ án:
[2.1]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Cảnh L và bà Nguyễn Thị H xác lập trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Ông Nguyễn Cảnh L xác định trong quá trình chung sống giữa vợ chồng ông bà phát sinh mâu thuẫn do ông không tin tưởng bà Nguyễn Thị H về mặt tình cảm dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã.
Theo xác minh tại địa phương, giữa ông L và bà H có phát sinh mâu thuẫn, tuy nhiên không cung cấp được nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể, hiện nay ông bà vẫn còn sống chung tại tổ 29 phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng, triệu tập hợp lệ nhưng bà Nguyễn Thị H vẫn vắng mặt không có lý do, việc bà H không đến Tòa án trình bày ý kiến, không tham gia hòa giải, không tham gia phiên tòa cho thấy bà không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử thấy rằng mối quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Cảnh L và bà Nguyễn Thị H không có sự tin tưởng, không cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc thực sự, mục đích hôn nhân không đạt được. Yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Cảnh L phù hợp Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho ông Nguyễn Cảnh L được ly hôn với bà Nguyễn Thị H.
[2.2]. Về con chung: ông Nguyễn Cảnh L xác định vợ chồng ông có 02 con chung chưa thành niên. Khi ly hôn ông có nguyện vọng được nuôi 02 con chung, bà Nguyễn Thị H vắng mặt không có yêu cầu gì về việc nuôi con.
Hội đồng xét xử xét thấy: ông Nguyễn Cảnh L có chỗ ở, thu nhập ổn định đảm bảo về kinh tế để nuôi con, các con chung đã trên 07 tuổi và cũng có nguyện vọng được ở với cha. Căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của ông Nguyễn Cảnh L, giao con cho ông trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên.
[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con: ông Nguyễn Cảnh L không yêu cầu bà Nguyễn Thị H cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.4]. Về tài sản chung và nợ chung: Về tài sản chung ông Nguyễn Cảnh L xác định ông và bà Nguyễn Thị H tự thỏa thuận và về nợ chung không có, bà Nguyễn Thị H vắng mặt không có ý kiến do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì ông Nguyễn Cảnh L phải chịu 300.000 đồng án phí tranh chấp hôn nhân và gia đình.
[4]. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, ông L có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bà H vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
[5]. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình; Điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” của ông Nguyễn Cảnh L đối với bà Nguyễn Thị H.
1. Về hôn nhân:
Ông Nguyễn Cảnh L được ly hôn với bà Nguyễn Thị H.
2. Về con chung:
Giao 02 con chung là Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 18/01/2005 và Nguyễn Thị Phương D, sinh ngày 03/10/2008 cho ông Nguyễn Cảnh L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung lần lượt thành niên.
Bà Nguyễn Thị H không cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con.
3. Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Cảnh L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm ông Nguyễn Cảnh L đã nộp theo biên lai thu số 0006400 ngày 18 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.
4. Ông Nguyễn Cảnh L có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bà Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết..
Bản án 33/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung
Số hiệu: | 33/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về