Bản án 33/2020/HNGĐ-PT ngày 29/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 33/2020/HNGĐ-PT NGÀY 29/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 30/2020/TLPT-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2020, về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 10/2020/HNGĐ-ST ngày 14/09/2020 của Toà án nhân dân huyện Gia Lộc bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2020/QĐ-PT ngày 14 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Anh Đặng Văn L, sinh năm 1979. HKTT: thôn GB, xã GK, huyện GL, tỉnh Hải Dương.

Địa chỉ làm việc: Lữ Đoàn 1, phường C, quận B, thành phố Hà Nội.

2- Bị đơn: Chị Lê Thị N, sinh năm 1985.

HKTT: thôn GB, xã GK, huyện GL, tỉnh Hải Dương. Hiện ở: thôn BĐ, xã GK, huyện GL, tỉnh Hải Dương.

3- Người kháng cáo: Anh Đặng Văn L là nguyên đơn trong vụ án. (Anh L và chị N có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm số 10/2020/HNGĐ-ST ngày 14/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện GL, tỉnh Hải Dương thì vụ án có nội dung tóm tắt như sau:

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, nguyên đơn là anh Đặng Văn L trình bày: Anh và chị Lê Thị N kết hôn trên cơ sở tự nguyện được Uỷ ban nhân dân (UBND) phường C, huyện T, thành phố Hà Nội (nay là phường C, quận B, thành phố Hà Nội) tổ chức đăng ký và cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16/01/2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống với nhau tại thành phố Hà Nội khoảng bốn năm. Đến đầu năm 2011, vợ chồng chuyển về nhà bố mẹ anh tại thôn GB, xã GK, huyện GL, tỉnh Hải Dương sinh sống; anh vẫn làm việc tại Lữ đoàn đặc công 1 ở thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, vợ chồng không có sự tôn trọng nhau; đặc biệt là khi anh đi làm tại Hà Nội, chị ở nhà tại quê có quan hệ không tốt với gia đình anh, thiếu tôn trọng bố mẹ anh, không chung thủy với anh, chị đã có quan hệ ngoài luồng với người đàn ông khác nên gia đình anh không chấp nhận chị và đã đuổi chị ra khỏi nhà vài lần, chị nhiều lần hứa sẽ sửa chữa nhưng chỉ được một thời gian chị lại chứng nào tật nấy. Từ khoảng cuối tháng 3/2020, chị đã thuê nhà ở tại thôn BĐ, xã GK, huyện GL sống đến nay. Vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, hiện mỗi người sống một nơi, không gặp gỡ, quan tâm đến nhau. Anh xác định tình cảm vợ chồng đã hết, hôn nhân không còn hạnh phúc nên anh khởi kiện xin ly hôn.

Về con chung: Anh và chị N có hai con là Đặng Thị Kim Ng, sinh ngày 15/01/2008 và Đặng Quang Ph, sinh ngày 19/9/2011. Hiện cả hai con đang ở cùng chị Nội. Anh đề nghị được nuôi cả hai con nhưng cũng đề nghị Tòa án xem xét nguyện vọng của các cháu. Nếu hai cháu có nguyện vọng sống cùng với chị N thì anh cũng nhất trí và anh sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật. Còn nếu anh được nuôi cả hai con thì anh không có yêu cầu về việc cấp dưỡng cho con. Hiện anh đang công tác tại Lữ đoàn đặc công 1 có mức thu nhập ổn định khoảng 10.000.000 đồng/tháng. Nay hai con của anh đều có nguyện vọng được tiếp tục sống với chị N, chị N cũng đề nghị được tiếp tục nuôi cả hai con và yêu cầu anh phải cấp dưỡng nuôi con với mức cấp dưỡng là 2.000.000đ/con/tháng, tổng cộng là 4.000.000đ/hai con/tháng thì anh cũng nhất trí.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và tại phiên tòa, bị đơn là chị Lê Thị N trình bày: Về quá trình kết hôn, thời gian chung sống đúng như anh L trình bày. Chị xác định vợ chồng xảy ra mâu thuẫn chủ yếu do anh L nghe lời bố mẹ đẻ của anh, anh không có lập trường nên đã nghi ngờ chị có quan hệ ngoài luồng với người đàn ông khác, không chung thủy với anh. Từ khi sinh con thứ hai, chị đưa các con về sống cùng với gia đình nhà chồng, anh L vẫn làm ở Hà Nội, mấy tháng mới về nhà nên thường xuyên nghe lời bố mẹ đẻ, không quan tâm đến chị và đã để cho bố mẹ anh đuổi chị ra khỏi nhà nên chị đã phải đưa hai con ra thuê nhà trọ sống ở thôn BĐ, xã GK, huyện GL từ ngày 28/3/2020 đến nay. Vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Chị xác định chị chỉ đồng ý ly hôn khi anh L giải quyết xong các vấn đề liên quan ngôi nhà của anh chị nên chị không nhất trí ly hôn.

Về con chung: Chị xác định vợ chồng có hai con là Đặng Thị Kim Ng và Đặng Quang Ph như anh trình bày. Từ khi chị ra thuê nhà ở riêng, hai con vẫn ở cùng với chị. Hiện hai con của anh chị đã có thể tự chăm sóc cho nhau, tự đi học và kết quả học tập của các cháu đều tốt, năm học vừa qua cháu Ng được xếp loại giỏi, cháu Ph được xếp loại khá, hiện cả hai cháu vẫn khỏe mạnh, phát triển bình thường. Nay cả hai cháu đều có nguyện vọng được ở với chị nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được tiếp tục nuôi cả hai cháu để không làm xáo trộn sinh hoạt của các cháu. Chị đang làm công nhân tại công ty ở thành phố Hải Dương có mức thu nhập khoảng 7.000.000 đồng/tháng, còn anh Lành có mức thu nhập trên 10.000.000 đồng/tháng; các chi phí cho việc ăn uống sinh hoạt, học hành cho các con của chị hàng tháng mất khoảng hơn 7.000.000 đồng nên chị yêu cầu anh L phải cấp dưỡng cho hai con với tổng là 4.000.000 đồng/tháng tức mỗi con 2.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 10/2020/HNGĐ-ST ngày 14/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện GL, tỉnh Hải Dương Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 229, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự; Luật phí và lệ phí; khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5, các điểm a, b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho anh Đặng Văn L ly hôn chị Lê Thị N.

2. Về nuôi con: Chấp nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Giao hai con là Đặng Thị Kim Ng, sinh ngày 15/01/2008 và Đặng Quang Ph, sinh ngày 19/9/2011 cho chị Lê Thị N trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi. Anh Đặng Văn L có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con hàng tháng với mức cấp dưỡng là 2.000.000đ (hai triệu đồng)/con/tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 9 năm 2020 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Anh Đặng Văn L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày chị N yêu cầu thi hành án, nếu anh L chậm thi hành số tiền cấp dưỡng trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chậm thi hành. Lãi suất do chậm thi hành theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Tại đơn kháng cáo ghi ngày 15/9/2020, nguyên đơn anh Đặng Văn L kháng cáo bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 10/2020/HNGĐ-ST ngày 14/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện GL, tỉnh Hải Dương. Anh L đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm mức cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng là 3.000.000đ/1 tháng. Nếu chị N không nhất trí với mức cấp dưỡng trên anh L đề nghị Tòa án giao mỗi người nuôi 01 con chung và không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Tại phiên tòa phúc thẩm anh L và chị N thống nhất thỏa thuận như sau: Anh L trực tiếp nuôi dưỡng hai con là Đặng Thị Kim Ng, sinh ngày 15/01/2008 và Đặng Quang Ph, sinh ngày 19/9/2011 cho anh L trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi. Chị Nội có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung là Đặng Quang Ph và Đặng Thị Kim Ng hàng tháng với mức cấp dưỡng là 1.500.000đ(Một triệu năm trăm nghìn đồng)/tháng, mỗi con là 750.000đ (Bẩy trăm năm mươi nghìn đồng)/tháng/con thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 12 năm 2020 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương có quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về hướng giải quyết vụ án: Do anh L và chị N đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, nghe ý kiến trình bày của các bên đương sự, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát.

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của anh Đặng Văn L trong thời hạn luật định nên kháng cáo hợp lệ, được cấp phúc thẩm xét xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

Tại phiên tòa phúc thẩm anh Đặng Văn L và chị Lê Thị N thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án như sau:

Anh L trực tiếp nuôi dưỡng hai con là Đặng Thị Kim Ng, sinh ngày 15/01/2008 và Đặng Quang Phúc, sinh ngày 19/9/2011 cho anh Lành trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi. Chị Nội có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Đặng quang Phúc và Đặng thị Kim Ngân hàng tháng với mức cấp dưỡng là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng)/tháng, mỗi con là 750.000đ/tháng/con thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 12 năm 2020 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Xét thấy, tại phiên tòa anh L và chị N đã thống nhất thỏa thuận được với nhau về việc giao con chung, bản thân anh L chỗ ở cố định, có thu nhập ổn định như vậy có đủ điều kiện để chăm sóc hai con, đối với chị N không có chỗ ở ổn định hiện tại đang phải thuê nhà, mặt khác chị N có nguyện vọng đi xuất khẩu lao động. Do vậy việc anh chị thỏa thuận giao con chung cho anh L nuôi là hoàn toàn phù hợp. Việc thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận của hai bên đương sự như lời đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương sửa án sơ thẩm về phần con chung và án phí sơ thẩm, [3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nên anh Lành phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Án phí sơ thẩm:

Anh Đặng Văn L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm. Chị N là người có nghĩa vụ cấp dưỡng nên phải chịu án phí 300.000 đ. Anh Lành không phải chịu án phí cấp dưỡng.

[5] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm không xem xét và có hiệu lực kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 2 Điều 148; Điều 300; khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 229, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự; Luật phí và lệ phí; khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5, các điểm a, b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận sự thỏa thuận của anh Đặng Văn L và chị Lê Thị N. Sửa bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 10/2020/HNGĐ-ST ngày 14/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện GL, tỉnh Hải Dương về phần nuôi con và án phí sơ thẩm.

Về con chung: Giao hai con là Đặng Thị Kim Ng, sinh ngày 15/01/2008 và Đặng Quang Ph, sinh ngày 19/9/2011 cho anh Đặng Văn L trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi. Chị Lê Thị N có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Đặng Thị Kim Ng và Đặng Quang Ph hàng tháng với mức cấp dưỡng là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng)/tháng, mỗi con là 750.000đ/tháng thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 12 năm 2020 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Chị Lê Thị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày anh L yêu cầu thi hành án, nếu chị N chậm thi hành số tiền cấp dưỡng trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chậm thi hành. Lãi suất do chậm thi hành theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí phúc thẩm: Anh Đặng Văn L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm được đối trừ với số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm mà anh đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0008837 ngày 15/9/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện GL, tỉnh Hải Dương. Anh L đã thi hành xong. Chị N phải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Án phí sơ thẩm: Anh Lành không phải chịu án phí cấp dưỡng. Anh Đặng Văn L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, được đối trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng anh đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0008737 ngày 22/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Anh L đã thi hành xong.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 29/12/2020./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HNGĐ-PT ngày 29/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:33/2020/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về