Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 24/10/2019 về không công nhận quan hệ hôn nhân

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỒ SƠN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ HÔN NHÂN

Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ thụ lý số 127/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2019 về việc không công nhận quan hệ hôn nhân, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04-10-2019 và Thông báo về việc thay đổi lịch xét xử số 15/TB-TA ngày 14-10-2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị L, sinh năm 1973; nơi cư trú: Tổ dân phố N (nay là tổ dân phố Đ), phường M, quận Đ, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1973; nơi cư trú: Tổ dân phố N (nay là tổ dân phố Đ), phường M, quận Đ, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện ngày 05-9-2019, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Lê Thị L trình bày:

- Về hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Văn Ng tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 3 năm 1992 đến nay nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Bà và ông Ng chung sống cùng nhau tại tổ N (nay là tổ Đ), phường M, quận Đ đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông bà không hiểu nhau, luôn bất đồng quan điểm sống, bất đồng về cách phát triển kinh tế gia đình nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Bà và ông Ng đã cố gắng khắc phục, hai bên gia đình khuyên giải để ông bà quay về chung sống nhưng không có kết quả. Bà đã không còn chung sống với ông Ng từ cuối năm 2018 đến nay. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của bà, bà đề nghị Toà án giải quyết không công nhận bà và ông Ng là vợ chồng.

- Về con chung: Bà và ông Ng có 02 con chung là Nguyễn Văn N, sinh năm 1993 và Nguyễn Văn K, sinh năm 1997. Anh N và anh K đều đã đủ 18 tuổi nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Bà và ông Ng tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại Bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông Nguyễn Văn Ng trình bày:

Ông chung sống với bà L như vợ chồng từ tháng 3 năm 1992 cho đến nay nhưng không đăng ký kết hôn do không hiểu biết pháp luật. Quá trình chung sống, ông và bà L đã có 02 con chung là Nguyễn Văn N, sinh năm 1993 và Nguyễn Văn K, sinh năm 1997. Từ năm 2017 đến nay, ông và bà L xảy ra mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, nguyên nhân là do vợ chồng không hiểu nhau, luôn bất đồng quan điểm sống nên thường xảy ra cãi vã, xô xát. Ông và bà L đã cố gắng khắc phục và hai bên gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Từ tháng 8 năm 2018 đến nay, ông và bà L đã sống ly thân, không còn quan hệ gì về tình cảm và kinh tế. Nay, bà L làm đơn yêu cầu không công nhận ông và bà L là vợ chồng, ông cũng đồng ý; về con chung, hai con của ông và bà L đã đủ 18 tuổi nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản chung, ông và bà L tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Việc bà L và ông Ng chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 3 năm 1992 đến nay nhưng không có đăng ký kết hôn đã vi phạm điều cấm của pháp luật, thuộc trường hợp không được hòa giải theo khoản 2 Điều 206 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy, Tòa án chỉ tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải giữa các đương sự theo khoản 2 Điều 208 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bà L và ông Ng giữ nguyên quan điểm yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ hôn nhân giữa ông bà. Hai con chung là Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn K đều đã đủ 18 tuổi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án không công nhận quan hệ hôn nhân, bị đơn là ông Nguyễn Văn Ng, cư trú tại: Phường M, quận Đ. Theo quy định tại khoản 8 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.

[2] Về hôn nhân: Bà L và ông Ng thống nhất trình bày ông, bà tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 3 năm 1992 đến nay nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Uỷ ban nhân dân phường M và phường H, quận Đ, nơi ông bà cư trú từ năm 1992 đến nay đều xác nhận bà L và ông Ng không làm thủ tục đăng ký kết hôn tại chính quyền địa phương. Bà L và ông Ng chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn đã vi phạm Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, theo hướng dẫn tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09-6-2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, bà L và ông Ng có nghĩa vụ phải đi đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu lực, tức là từ ngày 01-01- 2001 đến 01-01-2003. Tuy nhiên, từ ngày 01-01-2001 đến nay, mặc dù có đủ điều kiện kết hôn nhưng bà L và ông Ng vẫn không đăng ký kết hôn theo quy định, vi phạm Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nay, do mâu thuẫn giữa ông, bà nên bà L yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận bà và ông Ng là vợ chồng. Xét thấy, yêu cầu của bà L là có căn cứ chấp nhận, Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà và ông Ng theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06-01-2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về việc nuôi con: Bà L và ông Ng có 02 con chung là Nguyễn Văn N, sinh năm 1993 và Nguyễn Văn K, sinh năm 1997 đều đã đủ 18 tuổi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Bà L và ông Ng không yêu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà L là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[6] Về quyền kháng cáo: Bà L và ông Ng có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 9, Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 8 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà Lê Thị L và ông Nguyễn Văn Ng.

2. Về án phí: Bà Lê Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà bà đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai số 0007066 ngày 10-9- 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. Bà L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bà L và ông Ng có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 24/10/2019 về không công nhận quan hệ hôn nhân

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đồ Sơn - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về