Bản án 33/2018/HS-PT ngày 09/10/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

 TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 33/2018/HS-PT NGÀY 09/10/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 42/2018/TLPT-HS ngày 06 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo Lê Mạnh T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2018/HS-ST ngày 26 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

- Bị cáo có kháng cáo:

LÊ MẠNH T, sinh năm 1978, tại tỉnh Hà Giang;

Nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

Nghề nghiệp: Cán bộ Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng Cham Chu, huyện H; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng, đoàn thể: là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng tại Quyết định số 92-QĐ/UBKTHU ngày 17/5/2018 và Quyết định gia hạn đình chỉ sinh hoạt đảng số 103-QĐ/UBKTHU ngày 18/9/2018 của Ủy ban Kiểm tra huyện ủy Hàm Yên; con ông Lê Mạnh L, sinh năm 1947 và bà Lã Thị T, sinh năm 1948 (đã chết); có vợ Nguyễn Kim V, sinh năm 1981 và 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Ma Ngọc K - luật sư, Văn phòng luật sư Ngọc K thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 bị hại và 01 người liên quan không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Mạnh T, sinh năm 1978, địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang là cán bộ Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng Cham Chu, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Vào tháng 4/2017, Lê Mạnh T được phân công giải quyết vụ việc liên quan đến anh Bàn Văn Đ, sinh năm 1989, trú tại thôn C, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang có hành vi “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng”. Hồ sơ vụ việc sau đó đã được khởi tố và chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H để điều tra xử lý theo quy định.

Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2017 đến tháng 8/2017, T nói với anh Bàn Văn Đ là T có “cửa” có thể “chạy” cho anh Đ được hưởng án treo và yêu cầu anh Đ phải đưa cho T từ 20 đến 30 triệu đồng để lo việc “chạy án”. Do anh Đ muốn được hưởng án treo và tin tưởng T nên anh Đ đồng ý. Từ tháng 5/2017 đến tháng 8/2017, Lê Mạnh T đã 03 lần nhận tiền của anh Bàn Văn Đ cụ thể như sau:

Lần 01: Khoảng giữa tháng 5/2017, T hẹn gặp anh Đ tại đoạn đường liên thôn thuộc thôn L, xã P, huyện H, tỉnh Tuyên Quang để nhận tiền, anh Đ đưa cho T 2.000.000đ.

Lần 02: Ngày 24/8/2017, T gặp anh Đ tại thôn C, xã Y, huyện H, T nói với anh Đ là đưa thêm 20.000.000đ để lo “chạy án” treo cho anh Đ, anh Đ đồng ý. Khoảng 17 giờ cùng ngày, tại đoạn đường liên thôn thuộc thôn Vá, xã Y, huyện H, anh Đ đưa cho T 2.000.000đ và hẹn ngày hôm sau sẽ đưa cho T số tiền còn lại.

Lần 03: Khoảng 09 giờ ngày 25/8/2017, T hẹn anh Đ ở đoạn đường liên thôn thuộc thôn B, xã P, huyện H và nhận của anh Đ 17.000.000đ. Toàn bộ số tiền lừa anh Đ có được, T đã chi tiêu cá nhân hết.

Sau khi vụ án của anh Đ được Tòa án huyện H xét xử, anh Đ không được hưởng án treo nên đã nhiều lần gọi điện cho T để đòi lại tiền nhưng T không trả. Ngày 03/02/2018, anh Đ đã làm đơn tố giác gửi Cơ quan điều tra Công an huyện H.

Như vậy tổng số tiền Lê Mạnh T đã lừa đảo chiếm đoạt của anh Bàn Văn Đlà 21.000.000 đồng (Hai mươi mốt triệu đồng).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 20/2018/HS-ST ngày 26 tháng 6 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Mạnh T phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Lê Mạnh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lê Mạnh T.

Ngày 03 tháng 7 năm 2018, bị cáo Lê Mạnh T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang phát biểu quan điểm:

Về thủ tục kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, đúng pháp luật; trình tự, thủ tục giải quyết vụ án đúng tố tụng.

Về nội dung kháng cáo: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, xử phạt bị cáo Lê Mạnh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm tình tiết mới: có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến Hạng Nhì, xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Mạnh T, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 20/2018/HS-ST ngày 26 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang giảm cho bị cáo 06 tháng tù. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Mạnh T 12 tháng tù. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Luật sư trình bày luận cứ bào chữa cho bị cáo: Nhất trí tội danh, điều luật Kiểm sát viên đề nghị, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ (4 tình tiết) quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử giảm hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo.

Bị cáo Lê Mạnh T nhất trí luận cứ bào chữa của luật sư, không có ý kiến tranh luận gì thêm. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo..

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, luật sư và bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Mạnh T tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

[2] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2017 đến tháng 8/2017, tại xã Phù Lưu và xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, thông qua việc đưa ra những thông tin gian dối là có thể “chạy” cho anh Bàn Văn Đ được hưởng án treo, Lê Mạnh T trú tại Tổ dân phố T, thị trấn T, huyện H đã thực hiện hành vi chiếm đoạt của anh Đ tổng số tiền 21.000.000đ (Hai mươi mốt triệu đồng). Toàn bộ số tiền trên, T đã chi tiêu cá nhân hết.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Do đó, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo hình phạt tù là thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Cấp sơ thẩm đã xem xét, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; bản thân bị cáo và gia đình bị cáo có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác để xét xử bị cáo với mức án 01 năm 06 tháng tù là tương xứng.

[5] Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình tình tiết mới: có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến Hạng Nhì để xem xét cho nội dung kháng cáo. Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ (04 tình tiết) quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, vì vậy cần xem xét chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như đề nghị của Đ diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp pháp luật.

[6] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Mạnh T, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 20/2018/HS-ST ngày 26 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang về phần hình phạt như sau:

Căn cứ: Khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Mạnh T 01 (một) năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Bị cáo Lê Mạnh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (09/10/2018)./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

337
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2018/HS-PT ngày 09/10/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:33/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về