TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 33/2017/HSPT NGÀY 28/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 40/2017/HSPT ngày 16/6/2017 do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 116/2017/HSST ngày 11/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn X, sinh năm 1994 tại Thái Bình; nơi ĐKHKTT: Xóm TX, xã DN, huyện VT, tỉnh Thái Bình; nơi tạm trú: Tiểu khu 10, thị trấn MC, huyện MC, tỉnh Sơn La; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn K và bà Nguyễn Thị L; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 31/12/2016, có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn N, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư NS, Đoàn Luật sư tỉnh Thái Bình, có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1972; nơi ĐKNKTT: Xóm TX, xã DN, huyện VT, tỉnh Thái Bình, có mặt.
NHẬN THẤY
Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện MC và bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện MC, tỉnh Sơn La thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ ngày 30/12/2016, tại tiểu khu 10 thị trấn MC, Tổ công tác Công an huyện MC phối hợp với Ban Công an thị trấn MC đã kiểm tra hành chính về ma túy tại quán xăm hình nghệ thuật “TATTO” do Nguyễn Văn X làm chủ quán. Quá trình kiểm tra, X tự giác lấy ở đầu giường trong phòng ngủ của X ra 01 túi nilon màu xanh bên trong đựng 119 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY, X khai nhận đó là các viên ma túy tổng hợp X cất giấu nhằm mục đích để bán kiếm lời. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.
Ngày 31/12/2016 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện MC tiến hành cân tịnh, xác định 119 viên nén màu hồng có trọng lượng 12,07 gam và 01 viên nén màu xanh có trọng lượng 0,10 gam, đồng thời trích mẫu giám định ký hiệu X1, X2 gửi giám định; Tại kết luận giám định số 147/KLMT ngày 06/01/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:
- “Mẫu gửi giám định ký hiệu X1, X2 đều là chất ma túy, loại chất Methamphetamine.
- Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ là 12,17 gam, loại chất Methamphetamine”.
Do có hành vi nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2017/HSST ngày 11/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện MC, tỉnh Sơn La đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn X phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn X 48 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2016.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo đối với bị cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/5/2017 bị cáo Nguyễn Văn Xkháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn X thay đổi nội dung kháng cáo, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét việc bị cáo bị cấp sơ thẩm truy tố và xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy là không đúng sự thật, bị cáo không phạm tội và bị oan.
* Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm:
- Về thủ tục tố tụng: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã thu thập và bổ sung thêm một số tài liệu chứng cứ đưa vào hồ sơ vụ án nhưng không thực hiện đúng quy định tại Điều 10 Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC, do đó những tài liệu này không hợp pháp.
Quyết định tạm giữ số 34 ngày 31/12/2016 của Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện MC đã thể hiện: “Tạm giữ 03 ngày kể từ 11 giờ ngày 31/12/2016 đến 11 giờ ngày 03/01/2017 đối với Nguyễn Văn X”. Tuy nhiên, việc lập biên bản bắt quả tang bị cáo Nguyễn Văn X được thực hiện từ 13 giờ ngày 30/12/2016 và kết thúc vào 14 giờ 30 cùng ngày, nhưng Tổ công tác đã bắt giữ X và Cơ quan điều tra Công an huyện MC không lập biên ban giao nhận người bị bắt, dẫn đến không xác định được thời điểm giao nhận, là không thực hiện đúng quy định tại khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bản án không đưa bà Nguyễn Thị L (chủ chiếc xe mô tô mà bị cáo khai đã sử dụng để đi mua ma túy) tham gia Tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Việc điều tra của cấp sơ thẩm chưa đầy đủ: Cấp sơ thẩm chưa làm rõ sự mâu thuẫn về thu vật chứng của vụ án giữa các thành viên trong tổ công tác với Biên bản bắt người phạm tội quả tang về chiếc lọ nhựa màu trắng đựng ma túy, mặt khác chiếc lọ nhựa này là vật có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội, nhưng không được thu thập; chưa điều tra toàn diện để làm rõ nhân thân của đối tượng Lò Thị N (nguồn để điều tra: Thu giữa List điện thoại của bị cáo hỏi bị cáo về số điện thoại của N); Chưa làm rõ lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm: “Số ma túy tổ công tác thu giữ là của đối tượng Th”.
Do cấp sơ thẩm đã vi phạm về thủ tục tố tụng, chưa điều tra đầy đủ toàn diện dẫn đến chưa đủ căn cứ vững chắc để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn X, tại cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm c khoản 2 Điều 248, khoản 1 Điều 250 Bộ luật Tố tụng hình sự hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.
* Luật sư bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với ý kiến, quan điểm của Kiểm sát viên đưa ra tại phiên tòa phúc thẩm, cấp sơ thẩm điều tra chưa đầy đủ và có nhiều vi phạm trong tố tụng, đề nghị Hội đồng xét xử hủy án sơ thẩm để điều tra lại; ngoài ra Luật sư đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo cho bị cáo được tại ngoại.
Ý kiến của bị cáo: Nhất trí với ý kiến của Kiểm sát viên và Luật sư, bị cáo đề nghị xem xét điều tra lại vụ án.
Ý kiến của Kiểm sát viên: Luật sư đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là không có căn cứ, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận vì nếu thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo sẽ ảnh hưởng đến công tác điều tra, xử lý vụ án.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, Luật sư, lời khai của bị cáo và người tham gia tố tụng khác;
XÉT THẤY
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Xkhai: Ngày 29 và 30/12/2016 Nguyễn Văn X giao quán xăm hình “TATTO” cho bạn là Nguyễn Tiến Th, trú tại xã S, huyện MC, tỉnh Sơn La trông giúp, còn X đến ở cùng bạn gái là Lò Thị N thuê trọ ở nhà nghỉ Đ tại tiểu khu N, thị trấn NT nên không trực tiếp quản lý trông coi quán.
Sáng ngày 30/12/2016, khi Xđang ở với Lò Thị N thì bị cán bộ Công an đưa về quán xăm hình “TATTO” và tiến hành kiểm tra hành chính về ma túy, sau đó đã phát hiện tại giường ngủ của X 01 chiếc lọ đựng thuốc B10 bên trong đựng một túi ni lon có chứa 120 viên ma túy tổng hợp nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với X. Nguyễn Văn X khẳng định số ma túy bị thu giữ không phải của X. Tại cơ quan điều tra, bị cáo có khai nhận đã cất giấu ma túy để bán kiếm lời nhưng do bị ép cung nên mới khai nhận như vậy.
Xét về kháng cáo kêu oan và đề nghị điều tra lại vụ án của bị cáo Nguyễn Văn X:
* Về thủ tục tố tụng:
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn X được Tổ công tác Công an huyện MC lập vào 13 giờ 30 phút ngày 30/12/2016, tuy nhiên trong hồ sơ không thể hiện Cơ quan điều tra Công an huyện MC tiếp nhận bị cáo vào thời gian nào dẫn đến việc tính thời gian tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo chưa rõ ràng, chính xác (Quyết định tạm giữ số 34 ngày 31/12/2016 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu ghi: “Tạm giữ 03 ngày kể từ 11 giờ ngày 31/12/2016 đến 11 giờ ngày 03/4/2016”. Tại phiên tòa, bị cáo khai sau khi bị Tổ công tác lập biên bản bắt quả tang ngày 30/12/2016 bị cáo được đưa ngay đến cơ quan điều tra Công an huyện MC).
- Ngày 10/3/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện MC đã ban hành Cáo trạng số 39/CT-VKS truy tố bị cáo Nguyễn Văn X về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự và cùng ngày đã chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân huyện MC để xét xử. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án thể hiện có các tài liệu điều tra của Viện kiểm sát nhân dân huyện MC được thực hiện trong tháng 4/2017 (gồm các bút lục từ số 85 đến 123), đây là các tài liệu được bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nhưng việc bổ sung các chứng cứ trên không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC, nên không có giá trị chứng minh trong vụ án. Tại cấp phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã bổ sung chứng cứ, tuy nhiên không thể bổ sung đầy đủ được.
* Việc điều tra thu thập chứng cứ:
- Bị cáo Nguyễn Văn X khai ngày 30/12/2016 bị cáo ở cùng với bạn gái là Lò Thị N tại nhà trọ Đ thì bị Tổ công tác Công an huyện MC bắt. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chưa điều tra toàn diện để làm rõ nhân thân của đối tượng Lò Thị N như: Thu giữ List điện thoại của bị cáo, hỏi bị cáo về số điện thoại của N; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai khi bị bắt điện thoại của bị cáo đang để cho N quản lý, bị cáo đã cung cấp số điện thoại của bị cáo là 0973164334 và số điện thoại của Lò Thị N là 01666462807, đây là cơ sở để xác minh nhân thân của Lò Thị N từ đó làm rõ tình tiết bị cáo đã khai trên.
- Giữa Biên bản bắt người phạm tội quả tang với Báo cáo của các thành viên trong tổ công tác về việc thu giữ vật chứng có mâu thuẫn: Các thành viên trong tổ công tác đều báo cáo với nội dung “Nguyễn Văn X tự giác giao nộp 01 chiếc lọ thuốc tân dược, bên trong chiếc lọ có một túi ni lon màu xanh bên trong đựng 119 viên nén màu hồng + 01 viên nén màu xanh”, nhưng trong Biên bản bắt người phạm tội quả tang không thể hiện có lọ thuốc tân dược đựng ma túy (tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo đều khai số ma túy được cất giấu trong lọ thuốc B10, lọ thuốc trên là của bị cáo), nội dung trên chưa được cấp sơ thẩm làm rõ. Nếu có lọ thuốc tân dược đựng ma túy thì chiếc lọ này là vật chứng vụ án vì nó có giá trị chứng minh tội phạm nhưng lại không được thu thập, mô tả trong biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa vào hồ sơ vụ án là vi phạm quy định tại Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Về tài sản, đồ vật: Bị cáo khai khi bị cáo bị bắt giữ, tại quán xăm hình “TATTO” của bị cáo có những tài sản gồm: 02 máy xăm, 01 bộ máy vi tính, 01 máy in, 01 máy Scan, bộ đồ xăm (giường ngủ, bàn đạp, áp điện…) và đồ dùng, dụng cụ sinh hoạt hàng ngày. Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị L (mẹ bị cáo) khai sau khi Nguyễn Văn X bị bắt, bà và ông Nguyễn Văn Nh (em bà L) có được đến nhà bà Lê Thị Đ (là người cho X thuê quán và được Tổ công tác giao quản lý tài sản của bị cáo) để thanh toán nốt tiền thuê nhà của X và bà L chỉ được nhận lại một số tài sản của bị cáo gồm: Giường ngủ, bàn và giường xăm và máy phô tô còn lại các tài sản khác bà L không được nhận, ngoài ra có một số vật dụng, đồ dùng cá nhân như X kê khai bà L thấy Nguyễn Tiến Th (bạn của X) đã lấy sử dụng khi đó bà không biết đó là tài sản của Nguyễn Văn X, tại phiên tòa bị cáo đề nghị xem xét thu giữ và giao trả lại đầy đủ số tài sản đồ vật của bị cáo.
Xét thấy những mâu thuẫn trong việc giao tài sản, quản lý và trả lại tài sản của bị cáo giữa những người có liên quan, tại cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ, dẫn đến việc đưa người tham gia tố tụng trong vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa đầy đủ, đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Từ những đánh giá trên, xét thấy cấp sơ thẩm đã có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, việc điều tra thu thập chứng cứ chưa đầy đủ và tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên, Luật sư là phù hợp nên cần hủy án sơ thẩm để điều tra lại.
Về ý kiến của Luật sư đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn cho bị cáo được tại ngoại, Hội đồng xét xử xét bị cáo là người địa phương khác đến tạm trú tại huyện MC, tỉnh Sơn La, nơi ở chưa rõ ràng, vụ án còn nhiều tình tiết cần phải điều tra làm rõ, nên không có cơ sở để chấp nhận ý kiến của Luật sư.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 248; khoản 1 Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH
1/ Hủy bản án hình sự sơ thẩm số: 116/2017/HSST ngày 11/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện MC, tỉnh Sơn La, chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện MC, tỉnh Sơn La để điều tra lại theo thủ tục chung.
2/ Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn X không phải chịu phí hình sự phúc thẩm.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày tuyên án (ngày 28/8/2017).
Bản án 33/2017/HSPT ngày 28/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 33/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về