Bản án 331/2020/DS-PT ngày 15/05/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 331/2020/DS-PT NGÀY 15/05/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 15 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 92/2020/TLPT-DS ngày 22/01/2020 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 547/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1840/2020/QĐ - PT ngày 23 tháng 4 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa:

Nguyên đơn:

- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1949.

- Ông Trần Hồng S, sinh năm 1946.

Cùng địa chỉ: 314/15 đường A.L, Phường B, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của ông S, bà H: Bà Trần Thu T, sinh năm 1975. (Có mặt) Địa chỉ: 219/92E Đường A.L, Phường B, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Là người đại diện theo ủy quyền – Văn bản ủy quyền ngày 21/02/2020)

Bị đơn: Bà Lê Thị Thu T, sinh năm 1972. (Có mặt) Địa chỉ: 314/17 A.L, Phường B, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện hợp pháp của bị đơn:

Bà Nguyễn Thị Minh T, sinh năm 1987. (Vắng mặt) Địa chỉ: 82/5 Đường H, Khu phố S, phường H.P, quận T.D, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Là người đại diện theo ủy quyền – Văn bản ủy quyền ngày 31/8/2015) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Lâm Thế H, sinh năm 1974.

Người đại diện hợp pháp của ông H:

Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1958 (Có mặt) Địa chỉ: 10 đường M.H C.L, Phường B, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Là người đại diện theo ủy quyền – Văn bản ủy quyền ngày 05/5/2020) - Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1994. (Có mặt)

- Bà Lê Thị Phương Q, sinh năm 1997. (Có mặt)

- Bà Lê Thanh P, sinh năm 1999. (Vắng mặt)

- Trẻ Lê Châu N, sinh năm 2006 có người đại diện hợp pháp là bà Lê Thị Thu T. (Có mặt) Cùng địa chỉ: 314/17 đường A.L, Phường B, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ông Trần Văn Mười M, sinh năm 1959. (Xin vắng mặt) Địa chỉ: C18 Tổ H.K Ấp B.B, xã B.H, huyện B.C, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Bị đơn – bà Lê Thị Thu T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện của ông Trần Hồng S, bà Nguyễn Thị H và trong quá trình giải quyết vụ án, ông Trần Hồng H là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Trước đây giữa 02 căn nhà số 314/15 (số cũ 219/92E) và 314/17 (số cũ 219/92) A.L, Phường B, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh có phần đất trống thuộc quyền sử dụng của ông Trần Văn Mười M. Phần đất này làm đường thoát nước chung của nhiều nhà trong đó có nhà ông S và ông M.

Đến năm 2005 thì chỉ có nhà ông S sử dụng phần đất trống để làm đường thoát nước. Nên ông M đã làm Tờ thỏa thuận nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/11/2005, chuyển nhượng cho ông S phần đất trống giữa 02 nhà 314/12 và 314/17 A.L, phần đất rộng 0.6 m, dài 21m. Đến ngày 21/11/2007, các bên có mang ra Ủy ban nhân dân Phường B, Quận T xác nhận chữ ký.

Sau đó bà Lê Thị Thu T mua căn nhà số 314/17 A.L. Khi Bà T.R xây nhà thì có xây lên phần đất trống. Gia đình ông S và ông M đã làm đơn ngăn chặn việc xây dựng này vào năm 2010.

Theo Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập ngày 15/12/2015 thì phần đất trống trước đây hiện gồm phần đất có diện tích 1,6 m2 thuộc thửa phân chiết 71-4 và phần đất có diện tích 10,2 m2 thuộc thửa phân chiết 71-5, tờ bản đồ số 47, Bộ địa chính Phường B, Quận T (theo tài liệu năm 2002).

Phần đất 1,6 m2, Bà T.R đã xây dựng trên đó nên ông S, bà H không yêu cầu trả lại.

Đối với phần đất có diện tích 10,2 m2, trên đất có các công trình, tài sản của Bà T.R gồm: 03 cục nóng máy lạnh, 01 bồn bông phía trước. Phần đất này, ông S, bà H dùng làm đường thoát nước nên yêu cầu Bà T.R và những người sống trong nhà 314/17 A.L tháo dỡ các công trình, tài sản có trên đất và giao đất trống có diện tích 10,2 m2 cho ông S, bà H.

Ông S tự nguyện chịu chi phí đo vẽ, án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà có cùng ý kiến ông Hải đã trình bày. Bà đồng ý tự nguyện chịu chi phí đo vẽ, án phí dân sự sơ thẩm.

Tại biên bản ghi nhận sự việc ngày 04/11/2015 của bà Lê Thị Thu T và tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện hợp pháp của Bà T.R là bà Nguyễn Thị Minh T trính bày:

Khoảng đất trống giữa nhà 314/15 và 314/17 A.L, Phường B, Quận T là bà Lê Thị Thu T mua của bà Nguyễn Thị Tài. Bà T.A nói rằng phần đất trống là của Bà T.A do hai bên là sui gia nên để hẻm cho thoáng mát, hiện Bà T.A đã chết. Phần đất trống là tài sản riêng của Bà T.R, hiện trên phần đất có 03 cục nóng lạnh và 01 bồn bông phía trước là tài sản của Bà T.R. Bà T.R biết ông Trần Văn Mười M, ông M là em rể của Bà T.A, ông M đã bán phần đất này cho Bà T.A. Đồng thời khi xin phép xây dựng thì trong giấy phép có thể hiện phần đất trống này thuộc quyền sử dụng của Bà T.R. Bà T.R không đồng ý yêu cầu của ông S, bà H. Bà T.R không có yêu cầu gì khác.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/3/2016 và tại phiên tòa sơ thẩm ông Trần Văn Mười M trình bày:

Phần đất tranh chấp bên hông giữa 02 nhà 314/15 và 314/17 A.L, Phường B, Quận T là có nguồn gốc của bà Nguyễn Thị N (mẹ ông). Bà Nên được cấp Giấy chứng nhận đã kê khai đăng ký nhà đất ngày 25/12/1977 là nhà số 219/92 A.L với diện tích là 325 m2. Ngày 29/9/1989, bà Nên đã làm giấy ủy quyền căn nhà trên cho ông toàn quyền quyết định, có xác nhận của chính quyền địa phương vào ngày 25/7/1990.

Do nhà 314/15 A.L (nhà ông S) bên hông có các cửa sổ nên khi anh vợ ông là ông Lê Văn Ngọc (chồng Bà T.A) đến mua đất và xây nhà thì ông bán cho ông Ngọc, Bà T.A và có chừa phần đất trống nêu trên để nhà 314/15 có thể mở cửa sổ và làm cống thoát nước chung (trong đó có nhà ông và nhà ông S sử dụng). Ông không có bán phần đất trống này cho ông Ngọc, Bà T.A. Đến năm 2005, chỉ còn nhà ông S sử dụng đường thoát nước chung và phía ông S hỏi mua phần đất trống đó nên ông đã nhượng lại phần đất trống cho ông S, hai bên có lập Tờ thỏa thuận nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/11/2005 và được Ủy ban nhân dân Phường B, Quận T xác nhận chữ ký vào ngày 21/11/2007. Năm 2010 Bà T.R xây nhà, xây lên phần đất trống nên ông và ông S đã làm đơn lên phường yêu cầu Bà T.R ngưng xây trên phần đất trống, hiện trạng thì Bà T.R đã xây dựng hết khoảng 05 m của phần đất trống. Ông không có yêu cầu gì. Đất ông chuyển nhượng cho ông S, bà H. Ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông S, bà H.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm phát biểu ý kiến:

Trong quá trình tố tụng, Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng; Đồng thời đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Tòa án có vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử, đề nghị Tòa án khắc phục.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 547/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định:

Căn cứ vào:

Các điều 25, 33, 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011); Điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Các điều 689, 697 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 175 Bộ luật Dân sự năm 2015, Các điều 100, 203 Luật Đất đai, Điều 17 Nghị quyết 01/2012/HĐTP ngày 13/6/2012 Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về Án phí, lệ phí Tòa án; Điều 27 Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án, Điều 26 Luật Thi hành án dân sự,

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn:

Công nhận phần đất có diện tích 10,2 m2 thuộc thửa phân chiết 71-5, tờ bản đồ số 47, Bộ địa chính Phường B, Quận T (theo tài liệu năm 2002) theo Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập ngày 15/12/2015 thuộc quyền sử dụng của ông Trần Hồng S, bà Nguyễn Thị H.

Buộc bà Lê Thị Thu T và những người khác sống trong nhà số 314/17 A.L, Phường B, Quận T (gồm: ông Lâm Thế H, chị Nguyễn Thị Thu T, chị Lê Thị Phương Q, anh Lê Thanh P, em Lê Châu N) tháo dỡ tất cả các công trình, tài sản có trên đất và giao đất trống phần đất có diện tích 10,2 m2 thuộc thửa phân chiết 71-5, tờ bản đồ số 47, Bộ địa chính Phường B, Quận T (theo tài liệu năm 2002) theo Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập ngày 15/12/2015 cho ông Trần Hồng S và bà Nguyễn Thị H.

Ông Trần Hồng S, bà Nguyễn Thị H được quyền liên hệ Cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với phần đất có diện tích 10,2 m2, thuộc thửa phân chiết 71-5, tờ bản đồ số 47, Bộ địa chính Phường B, Quận T (theo tài liệu năm 2002) theo Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập ngày 15/12/2015.

2. Ghi nhận việc ông Trần Hồng S, bà Nguyễn Thị H tự nguyện chịu chi phí đo vẽ.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ghi nhận việc ông Trần Hồng S, bà Nguyễn Thị H tự nguyện nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng, số tiền này được trừ vào tiền tạm ứng án phí mà ông S, bà H đã nộp là 1.000.000 (một triệu) đồng theo Biên lai thu số 04831 ngày 15/6/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận T. Ông S, bà H được nhận lại 800.000 (tám trăm nghìn) đồng. Bà Lê Thị Thu T không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bà Trần Thu T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn – ông Trần Hồng S, bà Nguyễn Thị H trình bày:

Gia đình đình ông S, bà H (ông S và bà H là ba mẹ bà TH) sống tại nhà đất số 314/15 A.L từ năm 1968. Bà T.A về ở khoảng 10 năm thì bán lại cho Bà T.R. Bà không nhớ chính xác ngôi nhà đó Bà T.A mua năm nào nhưng bà nhớ mua sau gia đình bà. Bà không biết việc tráng mặt đường đi là do ai làm. Trước kia phần đất này chỉ có nhà ông S, bà H và nhà ông M sử dụng. Sau đó nhà ông M không sử dụng nữa đã làm giấy bán lại phần đất cho nhà ông S, bà H có xác nhận của chính quyền địa phương. Nhà Bà T.R từ khi chuyển đến ở đến nay không sử dụng đường ống thoát nước này mà làm đường ống thoát nước riêng dưới nền nhà.

Bà H, ông S không đồng ý yêu cầu kháng cáo của Bà T.R, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản bán sơ thẩm.

Bị đơn – bà Lê Thị Thu T trình bày:

Trước đây Bà T.R có mua nhà của Bà T.A, Bà T.A bán đất đó có đường ống thoát nước được đặt từ đời Bà T.A. Khi mua nhà bà vẫn sử dụng đường ống thoát nước này. Ngoài ra, đường ống thoát nước đó cũng được rất nhiều hộ sử dụng chung. Phần đất đó hiện nay đang được bà quản lý, do đó bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà H, bà yêu cầu phần đất phải để làm đường ống thoát nước chung. Bà thừa nhận bà thực hiện việc mua bán nhà vào năm 2007, tuy nhiên giữa hai bên không có hợp đồng mua bán 10,2 m2 đất này, trên giấy chứng nhận không có phần đất này vì đường ống thoát nước không được cấp giấy. Mặc dù không có ai ngăn chặn, nhưng khi bà xây nhà, có người bảo là đường ống thoát nước nên không được xây lên.

Ủy ban nhân dân Phường B, Quận T chỉ xác nhận chữ ký về sự thỏa thuận sử dụng đất từ năm 2005 giữa ông M và ông S, thực tế phần đất này hiện chưa được công nhận cho ai. Hiện nay có 02 gia đình sử dụng đường ống thoát nước nhưng khác đường cống. Nếu trả đất thì phải lấp lại đường ống thoát nước của Bà T.A từ xưa mặc dù không sử dụng, do đó bà không đồng ý. Đường ống cũ vẫn còn, nhưng nó bị nghẹt nên bà đào đường ống khác dưới nền nhà để sử dụng. Đường ống cũ hiện tại chỉ có duy nhất mỗi nhà bà ông S, bà H sử dụng. Bà thừa nhận Tòa án sơ thẩm có xem xét thẩm định tại chỗ, trong biên bản thẩm định xác định chỉ còn có 01 đường cống đang được sử dụng và có chữ ký của bà. Dù là đường cống không còn sử dụng nhưng mà vẫn là lối đi riêng từ thời Bà T.A, đề nghị được sử dụng chung để thông thoáng, thoát hiểm.

Do đó, bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị N là người đại diện hợp pháp của ông Lâm Thế H, trình bày:

Thống nhất với ý kiến của bị đơn. Trên đất thực tế ngày xưa có đường ống cũ thoát nước của Bà T.A, nhưng hiện đã không còn sử dụng, gia đình ông H, Bà T.R đã xây dựng đường ống thoát nước mới dưới nền nhà, nhưng gia đình ông H, Bà T.R mong muốn được sử dụng phần đất này để tiện thoát hiểm khi có sự cố xảy ra. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.

Bà Nguyễn Thị Thu T, trình bày:

Bà Thống nhất với ý kiến của Bà T.R. Bản thân bà mong muốn được sử dụng chung đường ống thoát nước.

Bà Lê Thị Phương Q, trình bày:

Bà đồng ý với ý kiến của bị đơn, gia đình bà mong muốn được sử dụng phần đất làm đường ống thoát nước này để tiện thoát hiểm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày quan điểm:

Về tố tụng:

Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, Thư ký Tòa án và các Thẩm phán tham gia phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm.

Về nội dung:

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử có căn cứ, do đó không có cơ sở chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn – bà Lê Thị Thu T. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị Thu T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 547/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Kháng cáo của bị đơn trong hạn luật định phù hợp khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận.

[1.2] Xét, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Lê Thanh P vắng mặt mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Trần Văn Mười M có đơn xin vắng mặt. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về nội dung:

Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập ngày 15/12/2015 thể hiện phần đất tranh chấp giữa các bên thuộc thửa phân chiết 71-5, tờ bản đồ số 47, Bộ địa chính Phường B, Quận T (theo tài liệu năm 2002) diện tích 10,2 m2. Phần đất này không nằm trong diện tích đất mà ông S, bà H được cấp theo Giấy chứng nhận quyền ở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc số 03640/2003 do Ủy ban nhân dân Quận T cấp ngày 27/10/2003 và không nằm trong diện tích đất mà Bà T.R được cập nhật thông tin thay đổi chủ sử dụng đất ở có hồ sơ gốc số 231/99 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 07/01/1999. Như vậy, phần đất tranh chấp cả phía nguyên đơn và bị đơn đều chưa được cấp giấy chứng nhận.

Bị đơn cho rằng phần đất tranh chấp là của ông Trần Văn Mười M, ông M chuyển nhượng cho bà Nguyễn Ngọc Tài, Bà T.A chuyển nhượng lại cho bị đơn. Nhưng bị đơn không có chứng cứ chứng minh Bà T.A đã chuyển nhượng phần đất tranh chấp cho bị đơn. Mặt khác, tại phiên tòa sơ thẩm ông M khai không có chuyển nhượng phần đất tranh chấp cho Bà T.A. Do đó, có căn cứ xác định lời khai của bị đơn là không có cơ sở.

Bị đơn cho rằng khi được Ủy ban nhân dân Quận T cấp giấy phép xây dựng thì trong giấy phép có thể hiện phần đất tranh chấp là thuộc quyền sử dụng của bị đơn. Căn cứ theo Công văn số 1282/UBND-QLĐT ngày 15/6/2017 của Ủy ban nhân dân Quận T thì nhà số 314/17 A.L, Phường B, Quận T do bà Lê Thị Thu T chủ sở hữu được Ủy ban nhân dân Quận T cấp Giấy phép xây dựng số 710/GPXD-UBND ngày 22/9/2008. Qua kiểm tra, phần diện tích xây dựng trên thửa đất phân chiết số 71-4 (có diện tích 1,6 m2 theo Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập ngày 15/12/2015) không có trong nội dung giấy phép xây dưng. Do đó, phần diện tích xây dựng trên thửa đất phân chiết số 71-4 có diện tích 1,6 m2 với quy mô 04 tầng là xây dựng sai nội dung giấy phép được cấp trên phần diện tích đất không được công nhận quyền sử dụng đất phải được xử lý theo đúng quy định, không có cơ sở xem xét cho tồn tại. Như vậy lời bị đơn trình bày là không có cơ sở.

Theo Giấy chứng nhận đã kê khai đăng ký nhà số 26 ngày 25/12/1977, Ủy ban nhân dân Phường chứng nhận bà Nguyễn Thị N kê khai nhà số 219/92 đường A.L với diện tích là 325 m2 và phần đất bị đơn nhận chuyển nhượng của Bà T.A, ông Ngọc là có nguồn gốc của bà Nguyễn Thị N, Giấy chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở Bà T.A, ông Ngọc được cấp có địa chỉ là 219/92 A.L. Từ đó, có cơ sở xác định phần đất tranh chấp có nguồn gốc của bà Nguyễn Thị N và phần đất này đã được kê khai theo Giấy chứng nhận đã kê khai đăng ký nhà số 26 ngày 25/12/1977. Bà Nên đã lập Tờ Ưng thuận về quyền sở hữu nhà và đất ngày 29/9/1989 cho ông Trần Văn Mười M (con bà Nên) được toàn quyền định đoạt, sử dụng, mua bán. Ông M đã làm Tờ thỏa thuận nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/11/2005, chuyển nhượng phần đất tranh chấp cho ông S, đến ngày 21/11/2007, các bên có mang ra Ủy ban nhân dân Phường B, Quận T xác nhận chữ ký.

Theo công văn 11295/VPĐK-KTTT ngày 31/7/2017 của Văn phòng Đăng ký đất đai Thành phố Hồ Chí Minh thì tờ thỏa thuận nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Mười M và ông Trần Hồng S lập ngày 18/11/2005 được Ủy ban nhân dân Phường B, Quận T xác nhận chữ ký ngày 21/11/2007 là một trong những cơ sở để xem xét, giải quyết hồ sơ đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Theo Công văn số 182/UBND ngày 10/7/2019 của Ủy ban nhân dân Phường B, Quân 8 thì phần đất trống khoảng hở 02 nhà được Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập Bản vẽ hiện trạng vị trí xác định ranh ngày 15/12/2015, hiện nay khoảng hở này đang được để trống và phía dưới có hệ thống thoát nước cho nhà 314/15 A.L, Phường B, Quận T.

Như vây, có cơ sở xác định nguyên đơn đã nhận chuyển nhượng phần đất tranh chấp hợp pháp và đang sử dụng phần đất tranh chấp. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ghi nhận việc nguyên đơn tự nguyện chịu chi phí đo vẽ, không yêu cầu bị đơn trả lại.

[3] Về án phí dân sự:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ yêu cầu nên bị đơn phải chịu 200.000 đồng. Ghi nhận việc nguyên đơn tự nguyên nộp số tiền này, số tiền này được trừa vào tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp là 1.000.000 đồng theo Biên lai thu số 04831 ngày 15/6/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận T. Nguyên đơn được nhận lại 800.000 đồng. Bị đơn không phải nộp án phí dân sự.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai số 0012474 ngày 04/12/2019 tại Chi Cục thi hành án dân sự Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T.R đã đóng xong án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 689, 697 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 175 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 100, 203 Luật Đất đai; Điều 27 Pháp lệnh án phí và lệ phí Tòa án; Điều 17 Nghị Quyết 01/2012/HĐTP ngày 13/6/2012 Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân Tối cao hướng dẩn áp dụng một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Luật Thi hành án dân sự;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn – bà Lê Thị Thu T.

2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 547/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – ông Trần Hồng S, bà Nguyễn Thị H.

Công nhận phần đất có diện tích 10,2 m2 thuộc thửa phân chiết 71-5, tờ bản đồ số 47, Bộ địa chính Phường B, Quận T (theo tài liệu năm 2002) theo Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập ngày 15/12/2015 thuộc quyền sử dụng của ông Trần Hồng S, bà Nguyễn Thị H.

Buộc bà Lê Thị Thu T và những người khác sống trong nhà số 314/17 A.L, Phường B, Quận T (gồm: ông Lâm Thế H, chị Nguyễn Thị Thu T, chị Lê Thị Phương Q, anh Lê Thanh P, em Lê Châu N) tháo dỡ tất cả các công trình, tài sản có trên đất và giao đất trống phần đất có diện tích 10,2 m2 thuộc thửa phân chiết 71-5, tờ bản đồ số 47, Bộ địa chính Phường B, Quận T (theo tài liệu năm 2002) theo Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập ngày 15/12/2015 cho ông Trần Hồng S và bà Nguyễn Thị H.

Ông Trần Hồng S, bà Nguyễn Thị H được quyền liên hệ Cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với phần đất có diện tích 10,2 m2, thuộc thửa phân chiết 71-5, tờ bản đồ số 47, Bộ địa chính Phường B, Quận T (theo tài liệu năm 2002) theo Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập ngày 15/12/2015.

4. Ghi nhận việc ông Trần Hồng S, bà Nguyễn Thị H tự nguyện chịu chi phí đo vẽ.

5. Về án phí dân sự:

5.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Ghi nhận việc ông Trần Hồng S, bà Nguyễn Thị H tự nguyện nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng, số tiền này được trừ vào tiền tạm ứng án phí mà ông S, bà H đã nộp là 1.000.000 (một triệu) đồng theo Biên lai thu số 04831 ngày 15/6/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông S, bà H được nhận lại 800.000 (tám trăm nghìn) đồng. Bà Lê Thị Thu T không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.

5.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai số 0012474 ngày 04/12/2019 tại Chi Cục thi hành án dân sự Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T.R đã đóng xong án phí phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 331/2020/DS-PT ngày 15/05/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:331/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về