Bản án 331/2019/HS-PT ngày 07/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 331/2019/HS-PT NGÀY 07/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 224/2019/HSPT ngày 29/5/2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 74/2019/HS-ST ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1984 tại tỉnh Long An; nơi thường trú: Tổ 8, ấp V, xã P, huyện C, tỉnh Long An; chỗ ở: B13/9 Ấp 2, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Thợ sắt; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Trần Thị K; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 00 phút ngày 29/9/2018, sau khi đi thăm mẹ ruột tại bệnh viện Bình Chánh về, Nguyễn Văn T đi bộ ngang qua nhà số 3/3A Ấp 4, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh thì phát hiện Dương Vĩnh Trung đang nằm ngủ trên ghế đá trước sân nhà, bên cạnh Trung có dựng 01 xe mô tô biển số hiệu Yamaha Jupiter biển số 68L1 - 183.44 có gắn chìa khoá sẵn và phía dưới Trung đang ngủ có 01 cái ví da màu nâu nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của Trung. T đi lại gần Trung lấy cái ví (bên trong có số tiền 300.000 đồng và một số giấy tờ tuỳ thân của Trung) bỏ vào túi quần của mình rồi dẫn xe mô tô của Trung ra một đoạn ngồi lên xe nổ máy chạy về hướng thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Trên đường đi, T sử dụng 300.000 đồng để đổ xăng và tiêu xài hết, đến 09 giờ ngày 29/9/2018, T điều khiển xe đến phường Vĩnh Ngươn, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang tìm người để bán xe thì bị người dân báo Công an phường Vĩnh Ngươn bắt giữ T cùng vật chứng và thông báo cho Công an huyện Bình Chánh tiếp nhận, xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 1967/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 19/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bình Chánh xác định: 01 xe môtô Yamaha Jupiter biển số 68L1-183.44 trị giá 27.550.000 đồng và 01 cái ví bên trong có số tiền 300.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 27.850.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Văn T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như trên. Cơ quan điều tra đã trả lại cho Dương Vĩnh Trung các vật chứng vụ án gồm: 01 xe mô tô biển số hiệu Yamaha Jupiter biển số 68L1 – 183.44, 01 Giấy chứng minh nhân dân, 01 Giấy phép lái xe, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 bóp màu nâu.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 74/2019/HS-ST ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; các Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt Nguyễn Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên buộc bị cáo phải nộp lại tiền thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 26/4/2019, bị cáo Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn T đã thừa nhận những hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo với lý do thiếu hiểu biết và cần tiền mua thuốc chữa bệnh cho mẹ nên đã trộm tài sản là chiếc xe gắn máy của ông Trung, đến nay bị cáo đã nhận thức được việc làm của mình là sai trái, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đang phải đi làm thợ sắt để nuôi mẹ đã già yếu đi lại khó khăn và bệnh tật; bị cáo có ông ngoại là ông Trần Văn Tính là liệt sỹ đã hy sinh trong kháng chiến chống thực dân Pháp; đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo trong thời gian hợp lệ. Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, thể hiện thái độ ăn năn hối cải mong muốn được hội đồng xét xử xem xét cho hưởng án treo. Nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, tại phiên tòa bị cáo cũng không nêu thêm được tình tiết nào mới, mức án 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Văn T không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng xin được hưởng án treo để có điều kiện đi làm nuôi sống bản thân và phụng dưỡng mẹ già yếu đi lại khó khăn và bệnh tật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn T đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Cụ thể: Khoảng 00 giờ 00 phút ngày 29/9/2018, bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô biển số hiệu Yamaha Jupiter biển số 68L1 - 183.44 trị giá 27.550.000 đồng và 01 cái ví bên trong có số tiền 300.000 đồng của ông Dương Vĩnh Trung. (Theo Kết quả định giá tài sản số 1967/HĐĐG - TTHS - TCKH ngày 19/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bình Chánh) tại nhà số 3/3A ấp 4, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 27.850.000 đồng.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ… nên Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Mặc dù, bản án sơ thẩm có nhận định tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” theo điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nhưng lại không áp dụng cho bị cáo là chưa đầy đủ nên cần áp dụng bổ sung cho bị cáo.

Ngoài ra, xét hoàn cảnh của bị cáo hiện là lao động chính đang phải đi làm nuôi mẹ già 77 tuổi, sức khỏe yếu, thường xuyên đau bệnh; bị cáo có ông ngoại là ông Trần Văn Tính là liệt sỹ đã hy sinh trong kháng chiến chống thực dân Pháp được Nhà nước ghi nhận; sau khi Tòa án sơ thẩm xét xử ngày 05/8/2019 bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 300.000 đồng là tiền thu lợi bất chính để sung vào Ngân sách nhà nước cho thấy bị cáo đã ăn năn, hối hận về hành vi sai trái đã gây ra. Đây là các tình tiết giảm nhẹ mới theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuy bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ mới kể trên, nhưng xét hành vi của bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo là người trưởng thành, có đủ sức khỏe lao động, biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn vi phạm, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức án 01 năm 06 tháng tù là đã xem xét toàn diện tính chất, mức độ vi phạm của bị cáo, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

[4] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo các điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự như đã kể trên. Trong vụ án này bị hại cũng có một phần lỗi khi ngủ ở ghế đá trước sân nhà vào đêm khuya nhưng không đóng cửa, không rút chìa khóa xe gắn máy nên đã tạo điều kiện kích thích lòng tham của bị cáo để rồi phạm tội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, có khả năng tự cải tạo tốt nên xét không cần thiết phải bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo hưởng án treo với thời gian thử thách nhất định cũng đảm bảo tính răn đe và ngăn ngừa tội phạm, nhằm tạo điều kiện cho bị cáo khắc phục, sửa chữa lỗi lầm, hòa nhập xã hội, làm lại cuộc đời, thể hiện sự khoan hồng của nhà nước. Với tội phạm bị cáo phạm phải là tội ít nghiêm trọng nên việc cho bị cáo hưởng án treo không ảnh hưởng đến tình hình đấu tranh phòng chống tội phạm ở địa phương.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, sửa bản án sơ thẩm theo hướng cho bị cáo được hưởng án treo.

[5] Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Đối với số tiền 300.000 đồng bị cáo Nguyễn Văn T đã nộp để khắc phục hậu quả, sung vào ngân sách nhà nước theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2019/0024118 ngày 05/8/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh thì tiếp tục tạm giữ để bảo đảm phần nghĩa vụ phải thi hành án của bị cáo.

Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, sửa bản án sơ thẩm số 74/2019/HS-ST ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (ba) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn T cho UBND xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách nếu bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bị cáo Nguyễn Văn T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2019/0024118 ngày 05/8/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh để bảo đảm phần nghĩa vụ phải thi hành án theo bản án sơ thẩm của bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 331/2019/HS-PT ngày 07/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:331/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về