TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 330/2017/HSST NGÀY 05/12/2017 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Hôm nay, ngày 05 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8 Thành phốHồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 324/2017/HSST ngày 16 tháng 10 năm2017 đối với các bị cáo:
1. Lê Văn M; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 96 Đường Z, Phường Q, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông Lê Văn T (Sinh năm: 1963) và bà Lê Thị Xuân Đ (Sinh năm: 1973); Vợ: Cổ Thị Ngọc T (Sinh năm: 1993); Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh 2015; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/7/2017 cho đến nay (Có mặt).
2. Nguyễn Anh T; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1982 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 301/17 D, Phường W, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 45/28/6 C, Phường E, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Lê Ngọc L (Sinh năm: 1955) và bà Nguyễn Thị Thanh H (Sinh năm: 1960); Sống chung như vợ chồng với Lê Thị Uyên T (Sinh năm: 1981); Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/7/2017 cho đến nay (Có mặt).
Người bị hại: Anh Đặng Chí T, sinh năm: 1995; Hộ khẩu thường trú: 12/3 Thôn 5, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; Chỗ ở: 150/36B P, Phường R, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh JK, sinh năm: 1985; Hộ khẩu thường trú: 266/5A B, Phường T, Quận B,Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).
2. Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm: 1987; Hộ khẩu thường trú: 301/17 D,Phường W, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 45/28/6 C, Phường E, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).
NHẬN THẤY
Các bị cáo Lê Văn M, Nguyễn Anh T bị Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 truy tốhành vi phạm tội như sau:
Lê Văn M, Nguyễn Anh T có quen biết nhau từ trước. Khoảng 18 giờ, ngày07/7/2017 M gặp T và con T tại quán cà phê trên đường C, Phường E, Quận A. Sau khi uống cà phê xong, khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày 07/7/2017 M nhờ T chở về nhà, T đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 59S1-700.81 chở con phía trước, M ngồi sau, khi T cho xe chạy đến trước cửa hàng điện thoại di động số 127 liên tỉnh 5, Phường Q, Quận A M thấy cửa hàng vắng khách nên nói T giả bộ vào trong cửa hàng hỏi mua điện thoạirồi chiếm đoạt bán lấy tiền chia nhau, T đồng ý. Thực hiện ý định trên, T dừng xe nổ máy, chờ sẵn, còn M vào trong cửa hàng gặp anh Đặng Chí T giả vờ hỏi mua điện thoại Iphone6, anh T nói cửa hàng không có, M tiếp tục nói anh T cho xem 01 điện thoại Iphone 5S và01 chiếc loa karaoke màu vàng trắng, anh T cầm điện thoại, chiếc loa karaoke giao cho M xem thì bất ngờ M nhanh tay giật và chạy ra ngoài lên xe T chờ sẵn, T tăng ga nhanh chóng tẩu thoát. Bị cướp giật tài sản, anh T tri hô, đuổi theo và được sự hỗ trợ của dân phòng Phường 5 truy đuổi khoảng 100m mét đến hẻm số 123 B, Phường Q, Quận A thì T đụng vào xe khác đi ngược chiều làm xe T té ngã, anh T cùng quần chúng đuổi kịp bắt được M, T cùng vật chứng giao Công an phường lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Sau đó, hồ sơ chuyển Cơ quan điều tra Công an Quận 8 điều tra xử lý.
Ngày 31/7/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 8 kết luận:01 điện thoại di động hiệu Iphone 5S trị giá 2.500.000 đồng; 01 chiếc loa karaoke màu vàng trắng có trị giá 400.000 đồng. Tổng cộng: 2.900.000 đồng.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 8 Lê Văn M, Nguyễn Anh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của các bị can phù hợp với lời khai bị hại, vật chứng, phương tiện gây án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Công an Quận 8 đã lập biên bản trao trả điện thoại và chiếc loa karaoke cho bị hại và bị hại không yêu cầu gì.
Vật chứng vụ án:
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5S 32GB màu Vàng-Trắng, không có gắn sim số, số Imei: 35.2034062920924;
- 01 chiếc loa hát karaoke màu Vàng-Trắng, không ghi nhãn hiệu.
- 01 xe gắn máy hiệu Wave RSX màu trắng đen, biển số 59S1-700.81, qua xác minh do anh JK đứng tên giấy đăng ký xe. Hiện nay anh JK đã bán nhà, không rõ địa chỉ. T khai mượn của chị Nguyễn Thị Thanh T, qua xác minh chị T không có mặt tại địa phương. Công an Quận 8 đã đăng báo tìm chủ sở hữu hợp pháp nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả.
Tại bản Cáo trạng số 314/CT-VKS ngày 13/10/2017 Viện kiểm sát nhân dân Quận8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Lê Văn M, Nguyễn Anh T về tội “Cướp giật tài sản”, theo khoản 1 Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Lê Văn M, Nguyễn Anh T về tội “Cướp giật tài sản”, theo khoản 1 Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) và đề nghị xử phạt bị cáo Lê Văn M từ 18 tháng đến 24 tháng tù; bị cáo Nguyễn Anh T từ 15 tháng đến 20 tháng tù.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên Tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, các bị cáo,
XÉT THẤY
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo khai nhận hành vi của mình như đã nêu trên, phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra, người bị hại; tang vật đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ, xác định khoảng 19 giờ 30 phút ngày 07/7/2017 M bàn bạc với T giả bộ vào trong cửa hàng hỏi mua điện thoại rồi chiếm đoạt bán lấy tiền chia nhau. Thực hiện ý định, tại cửa hàng điện thoại di động số 127 liên tỉnh5, Phường Q, Quận A T giả bộ vào cửa hàng hỏi mua điện thoại rồi nhanh chóng chiếm đoạt 01 điện thoại Iphone 5S và 01 chiếc loa karaoke. Theo định giá thì 01 điện thoại diđộng hiệu Iphone 5S trị giá 2.500.000 đồng; 01 chiếc loa karaoke màu vàng trắng có trị giá 400.000 đồng. Tổng cộng: 2.900.000 đồng.
Do đó Hội đồng xét xử thấy đủ căn cứ kết luận các bị cáo Lê Văn M, Nguyễn Anh T phạm tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 136 Bộ luật Hinh sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Trong vụ án, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có tổ chức, nhưng mang tính nhất thời, giản đơn. Bị cáo M là người đề xướng, rủ rê, và trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Bị cáo T là người giúp sức, do đó đối với bị cáo M cần có mức hình phạt nghiêm khắc hơn bị cáo T.
Để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, Hội đồng xét xử thấy cần thiết xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục các bị cáo sớm trở thành công dân tốt, làm ăn lương thiện khi hòa nhậpcộng đồng, nhằm đảm bảo mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử nhận thấy các bị cáo lần đầu phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi trả người bị hại, gây thiệt hại không lớn, do đó áp dụng điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Về xử lý vật chứng:
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5S 32GB màu Vàng-Trắng, không có gắn sim số, số Imei: 35.2034062920924; 01 chiếc loa hát karaoke màu Vàng-Trắng, không ghi nhãn hiệu, đã thu hồi trả người bị hại.
- 01 xe gắn máy hiệu Wave RSX màu trắng đen, biển số 59S1-700.81, qua xác minh do anh JK đứng tên giấy đăng ký xe. Hiện nay anh JK đã bán nhà, không rõ địa chỉ. T khai mượn của chị Nguyễn Thị Thanh T, qua xác minh chị T không có mặt tại địa phương. Công an Quận 8 đã đăng báo tìm chủ sở hữu hợp pháp nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Cần tiếp tục tạm giữ để thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm để tìm và trả lại chủ sở hữu. Hết thời hạn, nếu không có người thừa nhận hợp pháp thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: các bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Lê Văn M, Nguyễn Anh T phạm tội "Cướp giật tài sản".
- Áp dụng khoản 1 Điều 136; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 53 Bộ luậtHình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Xử phạt bị cáo Lê Văn M 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày07/7/2017.
- Áp dụng khoản 1 Điều 136; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 53 Bộ luậtHình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từngày 07/7/2017.
- Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009); Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 228 Bộ luật dân sự năm 2015.
Tiếp tục tạm giữ và đăng thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm, để tìm và trả lại 01 xe gắn máy hiệu Wave RSX màu trắng đen, biển số59S1-700.81 cho chủ sở hữu. Hết thời hạn trên, nếu không có người nhận hợp pháp thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.
(Tất cả theo Phiếu nhập kho vật chứng số 244/PNK ngày 29/9/2017 của Công anQuận 8).
- Áp dụng Điều 98, 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc mỗi bị cáo Lê Văn M, Nguyễn Anh T phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 330/2017/HSST ngày 05/12/2017 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 330/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về