Bản án 327/2020/HSST ngày 30/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 327/2020/HSST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 319/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 335/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: NÔNG THỊ H (tên gọi khác: Không) - sinh năm 1987, tại tỉnh Cao Bằng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn x, xã ĐD, huyện CJ, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở trước khi bị bắt: Không nơi ở nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Văn L (đã chết) và con bà Phan Thị Đ (đã chết); bị cáo chưa có chồng, bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2013.

Tiền sự: Không;

Tiền án: 01 tiền án, tại bản án số 235/2014/HSST ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt bị cáo 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành phần án phí dân sự, án phí hình sự và phần bồi thường thiệt hại, chưa được xóa án tích.

Nhân thân: Tại bản án số 61/2014/HSST ngày 06/11/2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt của bản án số 235/2014/HSST ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố B buộc bị cáo chấp hành 02 năm 02 tháng 21 ngày tù. Ngày 07/11/2016 chấp hành xong hình phạt tù, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/5/2020, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Bị hại:

- Ông Nguyễn Văn H1 – sinh năm 1999; địa chỉ: Thôn y, xã EB, huyện BĐ, tỉnh Đắk Lắk. ( vắng mặt) * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Văn Tiến Q – sinh năm 1985; địa chỉ: HHT, phường TL, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (vắng mặt) * Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Quốc C; địa chỉ: ĐBP, phường TC, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (vắng mặt) - Ông Lê Ngọc N; địa chỉ: ĐN, phường TL, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.(vắng mặt)

- Bà Nông Thị H2; địa chỉ: Thôn z, xã ĐD, huyện CJ, tỉnh Đắk Nông (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 26/5/2020, Nông Thị H đang đứng ở khu vực ngã ba đường TC với đường LTHG, thành phố B, Đắk Lắk thì có ông Nguyễn Văn H1, trú tại: Thôn y, xã EB, huyện BĐ, Đắk Lắk đến liên hệ mua dâm qua đêm cùng H, giá tiền là 700.000 đồng thì H đồng ý. Sau đó, H và ông H1 đến thuê nhà nghỉ ở số ĐN, phường TL, thành phố B. Tại đây, sau khi cả hai quan hệ tình dục xong rồi nằm ngủ, nên đã lén lút trộm cắp tài sản của ông H1 gồm: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus 32 GB, màu hồng và 01 điện thoại di động hiệu Huawei P30 loại Mal –Lx 32 màu trắng, mặt sau bị vỡ cho vào túi quần rồi bỏ trốn. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày H mang 02 chiếc điện thoại trên đến tiệm điện thoại di động Iphone 7 Plus cho ông Văn Tiến Q là chủ tiệm, do ông Q không biết tài sản do H phạm tội mà có nên đã mua với giá 4.000.000 đồng và sửa chữa, cài đặt lại phần mềm cho chiếc điện thoại Huawei giá 150.000 đồng. Sau đó H lấy điện thoại Huawei sử dụng còn tiền bán được tài sản H đã mua ma túy để sử dụng và chi tiêu cá nhân hết số tiền 2.000.000 đồng. Còn ông Nguyễn Văn H1 sau khi ngủ dậy phát hiện mất tài sản nên đã làm đơn trình báo gửi Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột. Sáng ngày 28/5/2020 H bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện xử lý.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 125/KLĐG, ngày 26/6/2020, của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, trị giá 4.00.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Huawei trị giá 1.400.000 đồng Tổng giá trị tài sản là 5.400.000 đồng.

Quá trình điều tra ông Văn Tiến Q yêu cầu bị cáo Nông Thị H phải hoàn trả số tiền 2.000.000 đồng Đối với hành vi mua dâm của ông Nguyễn Văn H1 và hành vi bán dâm, hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Nông Thị H, Cơ quan cảnh sát điều tra đã ban hành quyết định xử phạt hành chính.

Đối với đối tượng nam giới là người bán ma túy cho bị cáo Nông Thị H đã sử dụng hết, quá trình điều tra chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên Cơ uqan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột tách hành vi của đối tượng này ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với ông Văn Tiến Q là người đã mua và sửa chửa chiếc điện thoại do Nông Thị H nhưng ông Q không biết tài sản do Nông Thị H phạm tội mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra không đề cập xử lý hình sự đối với ông Văn Tiến Q.

Tại bản cáo trạng số 326/CT-VKSTP.BMT ngày 17/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Nông Thị H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nông Thị H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Về trách nhiệm dân sự bị cáo đồng ý bồi thường cho ông Văn Tiến Q số tiền 2.000.000 đồng.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nông Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nông Thị H mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự:

+ Buộc bị cáo trả cho ông Văn Tiến Q số tiền 4.000.000 đồng là người đã mua điện thoại Iphone 7 Plus, màu hồng cho Nông Thị H, được khấu trừ số tiền 2.000.000 đồng mà Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả cho ông Văn Tiến Q - Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus 32GB, màu hồng, 01 điện thoại di động hiệu Huawei P30 loại Mal – LX32, màu trắng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại số tài sản trên cho ông Nguyễn Văn H1 là chủ sở hữu nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì, mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của thủ tục tố tụng về thu thập tài liệu chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với các lời khai mà bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Vào khoảng 03 giờ 30 phút ngày 27/5/2020, tại ĐN, phường TL, thành phố B, Đắk Lắk, Nông Thị H đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của ông Nguyễn Văn H1, gồm: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus 32GB, màu hồng, 01 điện thoại di động hiệu Huawei P30 loại Mal – LX32, màu trắng. Trị giá tài sản chiếm đoạt là 5.400.000 đồng. Hành vi của bị cáo Nông Thị H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

...

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nông Thị H là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đều bị trừng trị thích đáng, xuất phát từ ý thức lười biếng lao động muốn có tiền tiêu xài cá nhân bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của bị hại, hành vi của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản khi chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp “Tái phạm” đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử cần áp dụng khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, tài sản bị cáo trộm cắp được có trị giá không lớn, tài sản bị cáo trộm cắp được đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp kịp thời, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo là người dân tộc thiểu số đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử cần áp dụng khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định có như vậy mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

- Quá trình điều tra người bị hại ông Nguyễn Văn H1 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Văn Tiến Q yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 2.000.000 đồng là có căn cứ nên cần chấp nhận yêu cầu của ông Q.

[4] Về vật chứng của vụ án:

+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus 32GB, màu hồng, 01 điện thoại di động hiệu Huawei P30 loại Mal – LX32, màu trắng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại số tài sản trên cho ông Nguyễn Văn H1 là chủ sở hữu là phù hợp nên cần chấp nhận.

+ Đối với số tiền 2.000.000 đồng mà bị cáo Nông Thị H đã giao nộp Cơ quan cảnh sát điều tra trả lại cho ông Văn Tiến Q là phù hợp nên cần chấp nhận. [5] Về án phí:

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 173 Bộ luật hình sự; Điều 260, Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nông Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nông Thị H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 28/5/2020.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584; Điều 585; Điều 586; Điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Nông Thị H phải bồi thường cho ông Văn Tiến Q số tiền 2.000.000 đồng Áp dụng khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự để tính lãi suất trong giai đoạn thi hành án.

[3] Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2017.

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột trả 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus 32GB, màu hồng, 01 điện thoại di động hiệu Huawei P30 loại Mal – LX32, màu trắng cho ông Nguyễn Văn H1 và trả cho ông Văn Tiến Q số tiền 2.000.000 đồng là chủ sở hữu hợp pháp.

[4] Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo Nông Thị H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

355
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 327/2020/HSST ngày 30/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:327/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về