Bản án 326/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 326/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 322/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 322/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ tên: Phạm Mạnh H - sinh năm 1979 tại: Tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 98/70 đường S, phường K, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Mạnh H1 và bà Vũ Thị T; có vợ Phan Thị L và 01 con; tiền án: Ngày 17-11-2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 01-02-2000 bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 12 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản công dân”, Ngày 20-01-2003 bị Tòa án nhân dân tối cao xử phúc thẩm phạt 03 năm về tội “Cướp tài sản”, Ngày 08-01-2007 bị Tòa án nhân dân Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06-9-2019, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 12-9-2019 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

1 - Bị hại: Bà Trần Thị C - sinh năm 1958; nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện B, tỉnh Nam Định. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ ngày 05-9-2019, Phạm Mạnh H điều khiển xe máy biển kiểm soát: 18Z6-9310 đi tới kiot số 2 địa chỉ: Số 126 đường N, phường B, thành phố Đ do chị Trần Thị T1 - sinh năm 1985; nơi cư trú: Số 84/418 đường B, tổ dân phố số 1, phường H, thành phố Đ là chủ để mua hàng. Khi đến nơi H gặp bà Trần Thị C - mẹ đẻ của chị T1 (bà C là người được chị T1 nhờ quản lý, trông coi cửa hàng) đang bán hàng cho khách, H quan sát thấy bà C để tiền bán hàng trong chiếc xô nhựa mầu đỏ có nắp đậy ngược tại chân chiếc kệ để hàng cạnh lối ra vào nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của cửa hàng. H đưa cho bà C một tờ giấy ghi những đồ cần mua, do bà C mắt kém nên bảo H mua cái gì đọc cho bà lấy. H đọc và yêu cầu bà C tìm đồ cho mình. Quan sát thấy bà C đang tìm đồ, H đứng sát quầy hàng lấy 01 hộp sữa nhãn hiệu Frisolac Gold trọng lượng 400g vỏ kim loại màu xanh, nắp màu vàng chưa sử dụng giấu vào trong áo rồi mang ra xe để ở giá kẹp đồ. Sau đó, H quay vào trong quầy hàng tiếp tục bảo bà C tìm đồ. Khi bà C không để ý H tiếp tục dùng tay thò vào trong chiếc xô đỏ lấy được một nắm tiền cất giấu vào túi quần. Sau đó, H lấy lý do phải đi nên trả tiền mua 01 bịch bỉm rồi tẩu thoát. Trên đường về H dừng xe kiểm đếm thì phát hiện lấy được 2.800.000 đồng, số tiền trên H cất vào ví rồi mang hộp sữa về đưa cho chị Phạm Ngọc T2 - sinh năm 1983; nơi cư trú: Số 50 đường C, phường Đ, thành phố Đ là người đang ở với H như vợ chồng tại địa chỉ: Phòng 401 nhà nghỉ V ở đường T, thành phố Đ, tỉnh Nam Định.

Nhận được đơn trình báo của bà Trần Thị C, Công an phường Cửa Bắc và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tiến hành điều tra làm rõ vụ án. Tại cơ quan điều tra, H xin đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình như trên. H tự nguyện giao nộp số tiền 2.800.000 đồng, chị Phạm Ngọc T2 tự nguyện giao nộp hộp sữa Frisolac Gold trọng lượng 400g, vỏ bằng kim loại màu xanh, nắp bằng nhựa màu vàng. Ngoài ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định còn thu giữ 01 mảnh giấy ghi các vật dụng cần mua H đưa cho bà C.

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nam Định xác định hộp sữa Frisolac Gold trọng lượng 400g có trị giá 248.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trả lại cho bà Trần Thị C hộp sữa Frisolac Gold trọng lượng 400g và số tiền 2.800.000 đồng. Bà C nhận lại và không có đề nghị gì khác. Đối với chị Phạm Ngọc T2 không biết hộp sữa là tài sản do Hùng trộm cắp được mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định không đặt ra vấn đề xử lý.

Bản cáo trạng số 327/CT-VKSTPNĐ ngày 11-11-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Phạm Mạnh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Phạm Mạnh H tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015: Phạt bị cáo Phạm Mạnh H từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù; miễn hình phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo Phạm Mạnh H nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Mạnh H; bị hại là bà Trần Thị C không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Mạnh H phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 02 giờ ngày 05-9-2019, Phạm Mạnh H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của bà Trần Thị C 01 hộp sữa Frisolac Gold trọng lượng 400g có trị giá 248.000 đồng và số tiền 2.800.000 đồng tại kiot số 2 địa chỉ: Số 126 đường N, phường B, thành phố Đ, tỉnh Nam Định. Tổng tài sản mà H chiếm đoạt là 3.048.000 đồng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có trị giá 3.048.000 đồng. Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Phạm Mạnh H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã ra đầu thú, bị hại có đơn xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về các tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án về tội: “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt: Bị cáo Phạm Mạnh H là đối tượng có nhân thân xấu, đã bị đưa ra xét xử nhiều lần về nhiều tội khác nhau nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để ăn năn hối cải thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo không có công việc ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả lại bị hại, bị hại là bà Trần Thị C đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác.

[7] Về án phí: Bị cáo Phạm Mạnh H bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Mạnh H 01 năm tù (Một năm tù). Thời hạn tù tính từ ngày 06-9-2019.

2. Án phí:

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.

Bị cáo Phạm Mạnh H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Phạm Mạnh H được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại là bà Trần Thị C được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bán án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 326/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:326/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về