TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 325/2017/HSST NGÀY 21/12/2017 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 21/12/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 326/2017/HSST, ngày 27/11/2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 332/ 2017/QĐXX ngày 08/12/2017 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Y B BYĂ. Sinh năm 1986; Tại: Đắk Lắk.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Buôn B, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê đê; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Tiền án, tiền sự: Không; Con ông: Y Br Ktul, sinh năm: 1950; Con bà: H’Dr Byă, sinh năm: 1957; Bị cáo là con thứ năm trong gia đình có 06 anh, chị, em ruột. Hiện đều trú tại: Buôn B, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Bị cáo chưa có vợ, con.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/10/2017, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B –Có mặt.
2. Họ và tên: Y BR NIÊ. Sinh năm 1995; Tại: Đắk Lắk.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Buôn K 1, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê đê; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 2/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Tiền án, tiền sự: Không. Con ông Y Bh Êban, sinh năm 1949; Con bà H’L Niê, sinh năm 1955; Bị cáo là con thứ bảy trong gia đình bị cáo có 08 anh, chị, em ruột. Hiện đều trú tại: Buôn Dh, xã Ea B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Bị cáo có vợ là H'Bh H'Mok, sinh năm 1993, có 01 con sinh năm 2013. Hiện cùng trú tại: Buôn K 1, xã Ea B, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/10/2017, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B – Có mặt.
*Người bị hại: anh Huỳnh Minh T –Sinh năm 1989
Địa chỉ: Phòng Cảnh sát giao thông Công an thành phố B, tỉnh Đắk Lắk –Có mặt
*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Y Dh Hmok, sinh năm 1986.
Địa chỉ: Buôn K 1, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk –Vắng mặt
*Người làm chứng:
1. Anh Đặng Nhất H –Sinh năm 1983. Trú tại: 124 L, phường T, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk –Vắng mặt
2. Anh Đinh Xuân D –Sinh năm 1987. Trú tại: 15 H, phường T, Tp.B, tỉnh Đắk Lắk –Có mặt
3. Anh Nguyễn Văn C –Sinh năm 1988. Trú tại: T 12, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk –Vắng mặt
4. Chị Nguyễn Thị Kim N –Sinh năm 1995. Trú tại: 389 N, phường T, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk –Vắng mặt
5. Anh Bùi Ngọc H –Sinh năm 1984. Trú tại: 22 H, phường T, Tp.B, tỉnh Đắk Lắk –Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào sáng ngày 08/10/2017, Y Br Niê và Y B Byă rủ nhau đến nhà bạn của Y Br ở Buôn K 1, xã Ea B, huyện B, tỉnh Đắk Lắk chơi và nhậu đến khoảng 08h 30’ cùng ngày thì ra về. Y Br Niê điều khiển xe Mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 47R4-28xx chở Y B Byă ngồi phía sau, đi từ hướng xã E, huyện B để về hướng xã H, thành phố B. Đến khoảng 09h45’ cùng ngày, cả hai đi đến đoạn đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, thì Tổ tuần tra của lực lượng Cảnh sát giao thông Công an thành phố B, gồm các đồng chí Đặng Nhất H, Nguyễn Văn C, Đinh Xuân D và Huỳnh Văn T, đang làm nhiệm vụ. Phát hiện Y Br Niê điều khiển xe mô tô chở Y B Byă, Y Br Niê điều khiển xe thả hai tay, rồi điều khiển xe chạy lạng lách trên đường, cả hai không đội nón bảo hiểm, nên đã ra hiệu lệnh cho Y Br Niê dừng xe để kiểm tra, nhưng Y Br Niê không chấp hành mà phóng xe bỏ chạy về phía trước. Do đó, anh Huỳnh Minh T và các đồng chí còn lại trong tổ tuần tra sử dụng xe mô tô và xe ô tô đặc chủng đuổi theo. Y Br Niê điều khiển xe chạy lòng vòng trên các con đường thuộc phường T và phường K, thành phố B. Khoảng 15 phút sau, khi chạy xe đến đoạn đường liên phường thuộc tổ dân phố 15, K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, gặp đoạn đường xấu, nhỏ hẹp, phía trước có xe ô tô đang chạy chắn đường nên Y Br Niê không vượt xe lên được và làm cho cả hai cùng xe Mô tô biển kiểm soát 47R4- 28xx ngã xuống đường. Đúng lúc này, đồng chí T đuổi đến kịp và đi đến đến giữ chiếc xe Mô tô biển kiểm soát 47R4-28xx, thì bất ngờ Y B Byă xông đến ôm đồng chí T từ phía sau, để cho Y Br Niê đứng đối diện dùng tay đấm 01 cái trúng vào vùng mặt của anh T gây thương tích và làm chiếc mũ bảo hiểm anh T đang đội trên đầu rơi xuống đất. Sau đó, các đồng chí trong tổ tuần tra cũng đuổi đến cùng với người dân khống chế, bắt quả tang Y B Byă, Y Br Niê giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý theo thẩm quyền.
Tại bản cáo trạng số: 337/KSĐT-HS ngày 24/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Y B Byă và Y Br Niê về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử :
Áp dụng khoản 1 Điều 257; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt:
- Bị cáo Y B Byă mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.
- Bị cáo Y Br Niê mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận và bào chữa gì thêm mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Y B Byă và Y Br Niê không xuất trình thêm chứng cứ tài liệu gì, các bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa các bị cáo Y B Byă và Y Br Niê đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố nêu ở trên. Lời khai nhận của các bị cáo là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa là có căn cứ .
Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, khoảng hơn 09h45’ ngày 08/10/2017, tại đoạn đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Y B Byă, Y Br Niê điều khiển xe Mô tô biển kiểm soát 47R4-28xx có hành vi thả 2 tay, lạng lách, không đội mũ bảo hiểm nhưng không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của anh Huỳnh Minh T, là Cảnh sát giao thông Công an thành phố B đang làm nhiệm vụ, là vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Bị cáo Y B Byă đã có hành vi ôm anh Th từ phía sau để cho Y Br đứng đối diện dùng tay đấm một cái trúng vào vùng mặt anh T gây thương tích tỷ lệ 01%.
Hành vi của các bị cáo Y B Byă và Y Br Niê đã phạm tội: “Chống người thi hành công vụ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự.
Tại khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”.
Các bị cáo là công dân có đầy đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống, nhưng lại không tuân thủ, chấp hành theo quy định của pháp luật, và có hành vi tấn công tổ viên của lực lượng cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ.
Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an của xã hội. Do vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra thì mới phát huy được tác dụng giáo dục nhằm răn đe và phòng ngừa chung trong đấu tranh chống tội phạm.
Trong vụ án này có 02 bị cáo cùng tham gia, thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Bị cáo Y Br Niê có hành vi không chấp hành hiệu lệnh của cảnh sát giao thông khi bị buộc dừng xe, còn bị cáo Y B Byă đã khống chế anh T để bị cáo Y Br Niê đánh. Do hành vi của các bị cáo có tính chất như nhau nên phải chịu mức hình phạt ngang nhau.
Tuy nhiên xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, điều kiện hoàn cảnh gia đình của các bị cáo khó khăn, các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số, có trình độ học vấn thấp nên hiểu biết về pháp luật có phần hạn chế. Tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, cần áp dụng cho các bị cáo trong khi lượng hình để giảm nhẹ một phần hình phạt và thể hiện tính chất nhân đạo, khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.
Đối với chiếc xe Mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 47R4-28xx mà các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội là tài sản của anh vợ Y Br Niê là anh Y Dh H'Môk. Anh Y Dh H'Môk cho bị cáo Y Br Niê mượn chiếc xe này để làm phương tiện đi lại và không biết hành vi phạm tội của các bị cáo. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điêu tra không đề cập xử lý nhưng đã chuyển chiếc xe mô tô trên đến Đội Cảnh sát Giao thông Công an thành phố B để xử lý về hành vi vi phạm giao thông là đúng quy định của pháp luật.
Đối với hành vi cố ý gây thương tích cho anh Huỳnh Minh T của các bị cáo Y B Byă và Y Br Niê, anh T không yêu cầu xử lý và cũng không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường bất kỳ khoản chi phí nào, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xử lý là phù hợp.
Về án phí : Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Y B Byă và Y Br Niê phạm tội: “Chống người thi hành công vụ”.
Áp dụng khoản 1 Điều 257; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Xử phạt:
-Bị cáo Y B BYĂ 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 08/10/2017.
-Bị cáo Y BR NIÊ 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 08/10/2017.
*Các biện pháp tư pháp: Áp dụng 42 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận anh Huỳnh Minh T không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường bất kỳ khoản chi phí nào.
*Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Y B Byă và Y Br Niê mội người phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.
Bản án 325/2017/HSST ngày 21/12/2017 về tội chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 325/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về