TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 32/2021/DS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
Ngày 29 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận S xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 29/2021/TLST - DS ngày 29 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 09 năm 2021, quyết định hoãn phiên tòa số 105 ngày 20/9/2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S; Trụ sở chính: lầu 8, 266-268 N, phường 8, quận 3, thành phố H. Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Đức Thạnh D - Chức vụ: Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP S - Người đại diện theo ủy quyền: ông Trần Thanh H – chức vụ: chuyên viên quan hệ khách hàng theo quyết định về việc uỷ quyền ký hợp đồng, thoả thuận, văn bản và tham gia tố tụng số: 3977/2020/QĐ-PL ngày 28/12/2020 và giấy uỷ quyền số 105/2021/UQ-CNĐN ngày 01/3/2021 của Giám đốc Chi nhánh Đà Nẵng. Địa chỉ: 130A-130-132 B, phường H, thành phố Đà Nẵng. Có mặt
2. Bị đơn: ông Lê Quốc T. Sinh năm 1991. Địa chỉ: K35/19 T, tổ 21, T, phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và ý kiến trong quá trình tố tụng tại Tòa án, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Trần Thanh H trình bày:
Vào ngày 12.09.2016, ông Lê Quốc T có ký với Ngân hàng TMCP S (gọi tắt là Ngân hàng) Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng – các tài liệu được gọi chung là Hợp đồng). Căn cứ mức thu nhập của ông T, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 20.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông T đã thực hiện 41 giao dịch với tổng số tiền là: 820.001.000 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay ông T đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền là 803.243.000 đồng. Qua nhiều lần làm việc và nhắc nhở, nhưng ông T vẫn không có thiện chí trả nợ. Do ông T vi phạm nghĩa vụ thanh toán từ tháng 5/2020 (Điều 20 của bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng), ngày 01/9/2020 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển giao toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 23 của bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).
Tại phiên tòa, Ngân hàng xác định hiện nay ông T còn nợ số tiền 34.265.694 đồng. Trong đó nợ gốc là 16.758.000 đồng, nợ lãi trong hạn: 5.882.054 đồng, nợ lãi quá hạn là 11.625.640 đồng. Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lê Quốc T phải trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ gốc nói trên. Ông T phải tiếp tục thanh toán tiền lãi phát sinh từ ngày 30/9/2021 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng.
* Bị đơn ông Lê Quốc T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng không đến nên không có lời khai của ông Lê Quốc T đã trong hồ sơ vụ án và không có ý kiến phản hồi gì liên quan đến chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cũng như ý kiến về việc có hay không yêu cầu phản tố.
Tại phiên tòa hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Theo đó, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng pháp luật từ thụ lý cho đến phiên toà xét xử. Nguyên đơn chấp hành nghiêm pháp luật tố tụng. Riêng bị đơn không thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tố tụng của mình nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc không tuân thủ quy định pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S đối với ông Lê Quốc T là có cơ sở, yêu cầu về cách tính lãi là phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 280 Bộ luật dân sự 2015; điều 91 Luật các tổ chức tín dụng, Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt; Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nên đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP S: Buộc ông Lê Quốc T phải trả cho Ngân hàng TMCP S số tiền gốc và lãi tạm tính đến ngày 29/9/2021 là 34.265.694 đồng. Trong đó dư nợ gốc là 22.640.054 đồng, nợ lãi quá hạn là 11.625.640 đồng và buộc ông T phải tiếp tục trả lãi phát sinh kể từ ngày 30/9/2021 theo thỏa thuận hai bên cho đến khi thanh toán xong mọi khoản nợ.
[1] Về thủ tục tố tụng:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
- Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S và ông Lê Quốc T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ông Lê Quốc T là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông T.
[2] Về nội dung vụ án:
Ngày 12/9/2016 ông Lê Quốc T ký Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng theo đó hai bên cam kết đã đọc và đồng ý bị ràng buộc bởi Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng cùng với mẫu đơn này tạo nên hợp đồng chi phối việc phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Ngân hàng thương mại cổ phần S đồng ý cấp thẻ tín dụng cho ông Lê Quốc T với hạn mức sử dụng là 20.000.000 đồng dưới hình thức hạn mức tín dụng để tiêu dùng cá nhân. Ngày 12/9/2016 ông T được Ngân hàng thông báo về mức lãi suất thể 2,5%/ tháng và lãi suất quá hạn 3,75%/ tháng, phí thường niên là 309.000 đồng, thời hạn sử dụng thẻ tử tháng 9/2016 đến tháng 9/2021. Ngày 30/9/2016 Ông T ký nhận thẻ. Theo thỏa thuận, ông Lê Quốc T có trách nhiệm thanh toán nợ theo thông báo giao dịch hàng tháng mà Ngân hàng gửi cho ông T theo thứ tự ưu tiên thanh toán tại Điều 20 của Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng.
Sau khi được cấp thẻ, ông T đã thực hiện 41 giao dịch tổng số tiền là 820.001.000 đồng và các khoản lãi, phí phát sinh trên thẻ nhưng ông không thanh toán đúng hạn nên Ngân hàng đã tính lãi trên tổng dư nợ qua từng kỳ đến hạn. Từ ngày kích hoạt thẻ đến nay, ông T đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 803.243.000 đồng theo thứ tự ưu tiên thanh toán tại Điều 20 của Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng. Đến tháng 5/2020 ông T vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Mặc dù Ngân hàng đã thực hiện thông báo giao dịch hàng tháng và nhiều lần nhắc nhở nhưng ông T vẫn không có thiện chí trả nợ. Ngày 01/9/2020 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ theo điểm 1.9 Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng bao gồm tiền nợ còn lại sau các lần giao dịch, tiền lãi, các loại phí tính đến ngày 31/8/2020 là 22.640.054 đồng sang nợ quá hạn theo đúng quy định tại Điều 23 của Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng. Tính đến ngày 29/9/2021, ông Lê Quốc T còn nợ 34.265.694 đồng. Trong đó dư nợ gốc là 22.640.054 đồng, nợ lãi quá hạn là 11.625.640 đồng. Do đó, Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lê Quốc T phải trả toàn bộ khoản nợ trên và yêu cầu tiếp tục tính lãi từ ngày 30/9/2021 cho đến khi ông Lê Quốc T trả hết nợ theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại hợp đồng.
[3] Hội đồng xét xử xét thấy: Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Ngân hàng thương mại cổ phần S với ông Lê Quốc T trên cơ sở tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuân thủ các quy định của pháp luật về nội dung và hình thức nên được thừa nhận và bảo vệ. Các bên tham gia trong giao dịch này có mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã ký kết nói trên.
Quá trình thực hiện hợp đồng, đến tháng 5/2020 ông Lê Quốc T đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ theo thông báo giao dịch của Ngân hàng, liên tục không trả nợ trong nhiều kỳ. Mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở nhưng ông T vẫn không có thiện chí trả nợ. Ngày 01/9/2020, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ tính đến ngày 31/8/2021 là 22.640.054 đồng sang nợ quá hạn, áp dụng lãi suất nợ quá hạn trên toàn bộ dư nợ trên theo quy định của Ngân hàng. Hội đồng xét xử xét thấy ông T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo Điều 18, Điều 23 của Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng như đã ký kết. Việc khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S yêu cầu Tòa án buộc ông Lê Quốc T phải trả số tiền còn nợ nói trên là phù hợp với khoản 2 Điều 91 Luật tổ chức tín dụng; Điều 280 của Bộ luật dân sự năm 2015, điểm b, khoản 1 Điều 14 Nghị định 101/2021/NĐ- CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt nên cần được chấp nhận.
[4] Lãi suất tiếp tục được tính kể từ ngày 30/9/2021 trên số dư nợ gốc theo mốc lãi xuất nợ quá hạn do các bản thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng ngày 12/9/2016 cho đến khi ông Lê Quốc Thanh thanh toán xong khoản nợ.
[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP S được chấp nhận nên bị đơn là ông Lê Quốc T phải chịu án phí theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cụ thể số tiền ông Lê Quốc T phải chịu là (34.265.694 đồng x 5%) = 1.713.284 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 280 Bộ luật dân sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;
Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Căn cứ Nghị định 101/2021/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt” của Ngân hàng thương mại cổ phần S đối với ông Lê Quốc T.
Xử:
1. Buộc ông Lê Quốc T phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền tính đến ngày 29/9/2021 là 34.265.694 đồng. Trong đó nợ gốc là 22.640.054 đồng, nợ lãi quá hạn là 11.625.640 đồng Lãi suất tiếp tục được tính kể từ ngày 30/9/2021 trên số dự nợ gốc theo mốc lãi xuất nợ quá hạn do các bản thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng ngày 12/9/2016 cho đến khi ông Lê Quốc T thanh toán xong khoản nợ.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: 1.713.284 đồng (Một triệu bảy trăm mười ba nghìn hai trăm tám mươi tư đồng) ông Lê Quốc T phải chịu.
Hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền tạm ứng án phí 699.916 đồng theo biên lai thu số 0006630 ngày 26/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trọng hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án 32/2021/DS-ST ngày 29/09/2021 về tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
Số hiệu: | 32/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về