Bản án 32/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2020/TLST- HS, ngày 23 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vi May Th. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 01/7/1988 tại xã ChL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Bản KN, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn M và bà Vi Thị X. Vợ con: Chưa.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Bản án số 23/2018/HSST ngày 29/03/2018 của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn xử phạt 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/02/2019.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 6/10/2020 cho đến nay. Có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo: Ông L Công Thiết. Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Bị hại: Anh Vi Thị L, sinh năm 1989. Nơi cư trú: Bản KN, xã CL, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Có đơn xin xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 04/10/2020, Vi May Th nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của em gái Vi Thị L, sinh năm 1989, trú tại bản KN, xã CL, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Sau đó, Th đi bộ sang nhà Vi Thị L quan sát không có ai ở nhà nên đã dùng tay bẻ gãy dây thép buộc cửa ở tầng một rồi đi Ln tầng hai lấy chìa khóa xe máy để trên giường, Th quay xuống dắt xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, BKS: 37K1-051.61 màu vàng- đen ra đường nổ máy đi. Đến ngày 05/10/2020, chị Vi Thị L phát hiện bị mất tài sản nên đã làm đơn trình báo cơ quan chức năng về việc bị mất tài sản. Nhận thấy hành vi của mình sai trái nên ngày 06/10/2020, Vi May Th đã đến đầu thú tại Công an huyện Kỳ Sơn và tự nguyện giao nộp chiếc xe máy đã lấy trộm của chị Vi Thị L.

Ngày 07/10/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn đã có công văn số 165 để yêu cầu Hội đồng định giá tài sản- UBND huyện Kỳ Sơn định giá 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, BKS: 37K1- 051.61 màu vàng- đen, số máy 5C6K052468, số khung: RLCS5C6KOOYO52573, xe đã qua sử dụng.

Kết luận định giá tài sản số 14 ngày 12/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản- UBND huyện Kỳ Sơn đã kết luận: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, BKS: 37K1-051.61 màu vàng- đen, số máy 5C6K052468, số khung: RLCS5C6KOOYO52573, xe đã qua sử dụng có giá trị 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Cáo trạng số 167/CT-VKS-KS ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn truy tố Vi May Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vi May Th mức án từ 12 (Mười hai) tháng đến 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo; Về vật chứng: 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, BKS: 37K1-051.61 màu vàng- đen, số máy 5C6K052468, số khung: RLCS5C6KOOYO52573 đã được trả lại cho chủ sở hữu là chị Vi Thị L.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản không yêu cầu bị cáo phải bồi thường; Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo Vi May Th đồng ý với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có tranh luận gì. Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt bị hại (có đơn xét xử vắng mặt) tuy nhiên đã đã có lời khai đầy đủ tại hồ sơ vụ án và tại đơn xin xử vắng mặt không yêu cầu về việc bồi thường, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Vi May Th đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 20 giờ ngày 04/10/2020, tại bản Khe Nằn, xã Chiêu Lưu, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, Vi May Th lợi dụng sơ hở về quản lý tài sản của chị Vi Thị L đã thực hiện hành vi trộm 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, BKS: 37K1- 051.61, số máy 5C6K052468, số khung: RLCS5C6KOOYO52573, màu vàng- đen. Chiếc xe máy được Hội đồng định giá kết luận có giá trị 10.000.000đ (mười triệu đồng). Hành vi của Vi May Th đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo tuổi đời còn trẻ, là người có đủ năng lực để nhận thức được việc trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để lén lút thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người nghiện ma túy, mới chấp hành xong hình phạt tù chưa được xóa án tích, không lấy đó làm bài học để tu sửa bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm, vì vậy bị cáo thuộc trường hợp bị áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xét thấy, trong thời gian gần đây, hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Kỳ Sơn xảy ra nhiều, để góp phần đảm bảo an ninh trật tự, thực hiện nhiệm vụ chính trị trên địa bàn huyện cần xử lý nghiêm hành vi này, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo sau khi thực hiện hành vi vi phạm đã nhận thức được việc làm là sai trái nên đã đến cơ quan Công an huyện Kỳ Sơn để đầu thú và giao nộp lại tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt, vì vậy bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, do đó xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định, người nghiện ma túy, gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[6] Về vật chứng: 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, BKS: 37K1-051.61, số máy 5C6K052468, số khung: RLCS5C6KOOYO52573, màu vàng- đen đã được trả lại cho chủ sở hữu là chị Vi Thị L là đúng quy định.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị trộm cắp quá trình điều tra và đơn xin xử vắng mặt không có yêu cầu về việc bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về ý kiến của bị hại: Về trách nhiệm dân sự không yêu cầu bồi thường gì thêm; Về trách nhiệm hình sự đề nghị xử lý nghiêm hành vi của bị cáo.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng và tội danh: Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vi May Th: 14 (Mười bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 6/10/2020.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vi May Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về