Bản án 32/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 25/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 25 tháng 12 năm 2020, tại: trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2020/QĐXXST-HS, ngày 10/12/2020 đối với các bị cáo:

1/ H’ K; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1960, tại: Gia Lai; Chỗ ở: Làng Chuet 1, phường Thắng Lợi, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Jrai; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Tin lành; Con ông: Tunh (Chết) và bà A Lơr (Chết); Bị cáo có chồng là Bẽnh và 04 con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2006; Tiền án; tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt tại phiên tòa).

2/ H HY; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1980, tại: Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Chỗ ở: Làng Chuet 1, phường Thắng Lợi, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Jrai; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Tin lành; Con ông: HYăm (Chết) và bà H’Chuch (Chết); Gia đình bị cáo có 07 chị em, bị cáo là con út trong gia đình; Bị cáo có chồng là Tam (chết) và 03 con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2010; Tiền án; tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt tại phiên tòa).

3/ H’NH; tên gọi khác: Không; sinh ngày 01/3/2004, tại: Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Chỗ ở: Làng Chuet 1, phường Thắng Lợi, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Jrai; giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Tin lành; Con ông: ARoih, sinh năm 1968 và bà H’ Nhak, sinh năm 1967; Gia đình bị cáo có 10 anh, chị, em, bị cáo là con thứ 06 trong gia đình; Tiền án; tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt tại phiên tòa).

4/ H’HYƯ; tên gọi khác: Không; sinh năm 1996, tại: Gia Lai; Chỗ ở: Làng Chuet Ngol, xã Chư Á, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Jrai; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Công giáo; Con ông: HRi (Chết) và bà H’PLer (Chết); Gia đình bị cáo có 03 anh, em, bị cáo là con út trong gia đình; Bị cáo không có chồng, có 03 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án; tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt tại phiên tòa).

5/ H’HR; tên gọi khác: Không; sinh năm 1993, tại: Gia Lai; Chỗ ở: Làng Chuet Ngol, xã Chư Á, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn:

04/12; Dân tộc: Jrai; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Công giáo; Con ông: HRi (Chết) và bà H’PLer (Chết); Gia đình bị cáo có 03 anh, em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Bị cáo có chồng là Lo Văn Linh và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án; tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt tại phiên tòa).

6/ H’ HI; tên gọi khác: Không; sinh ngày 22/3/2003, tại: Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Chỗ ở: Làng Chuet Ngol, xã Chư Á, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Jrai; giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Công giáo; Con ông: Huên, sinh năm 1980 và bà H’Yen, sinh năm 1982; Bị cáo chưa có chồng; Gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình; Tiền án; tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt tại phiên tòa).

+ Người bào chữa cho bị cáo H’Nhi và H’Hila: Ông Tống Đức Ngũ – Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai. Địa chỉ: Văn phòng Luật sư Hà Trung, số 59 đường Lê Hồng Phong, thị trấn Phú Hòa, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai.

+Bị hại: Công ty Cổ phần khoáng sản và Vật liệu xây dựng Gia Lai. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Châu Kinh Quốc, sinh năm 1973 –Giám đốc Công ty Cổ phần Khoáng sản Gia Lai.

Địa chỉ: thôn 9, xã Nghĩa Hưng, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Nguyễn Vinh Quyền, sinh năm 1980.

Địa chỉ: Làng Nú, xã Chư Á, Tp.Pleiku, tỉnh Gia Lai. (vắng mặt)

2/ H’ Yẽo, sinh ngày 13/7/2006. Người đại diện hợp pháp và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà H’Yen, sinh năm 1982. Địa chỉ: Làng Chuet Ngol, xã Chư Á, Tp.Pleiku, tỉnh Gia Lai. (có mặt)

3/ H’ Lyva, sinh ngày 20/12/2006. Người đại diện hợp pháp và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bẽnh, sinh năm 1975. Địa chỉ: Làng Chuet 1, phường Thắng Lợi, Tp.Pleiku, tỉnh Gia Lai. (có mặt)

4/ Bà H’ Nhak, sinh năm 1967 và ông A Roih, sinh năm 1968. Địa chỉ: Làng Chuet 1, phường Thắng Lợi, Tp.Pleiku, tỉnh Gia Lai. (có mặt)

5/ Ông Huên, sinh năm 1980. Địa chỉ: Làng Chuet Ngol, xã Chư Á, Tp.Pleiku, tỉnh Gia Lai. (có mặt)

6/ Thất, sinh năm 1995. Địa chỉ: Làng Chuet 1, phường Thắng Lợi, Tp.Pleiku, tỉnh Gia Lai. (có mặt)

+ Người phiên dịch: Ông Rơ Châm Thả – Cán bộ công an huyện Chư Păh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 23/4/2020, H’K, HHY, H’NH, H’HRƯ, H’HYƯ, H’HI cùng H’LY và H’YẼ cùng nhau đi nhặt phế liệu. Khoảng 10h00’ cùng ngày, khi đi ngang qua khu vực nhà máy gạch thuộc Công ty cổ phần khoáng sản và vật liệu xây dựng Gia Lai, phát hiện thấy khu vực nhà máy vắng vẻ, không có người trông coi nên các đối tượng nảy sinh ý định lẻn vào trong nhà máy để trộm cắp tài sản bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Lúc này, H’NH, H’LY và H’YẼ đứng ở ngoài đường để trông xe mô tô và cảnh giới, còn những người còn lại thì đi vào khu vực tường rào của nhà máy gạch để trèo vào trong, nhưng vì H’K không trèo tường vào được nên đứng sát ngoài tường rào, còn HHYƯ, H’HRƯ, H’HYƯ, H’HI trèo tường rào vào nhà máy gạch. Sau khi vào bên trong khu vực nhà máy, HHYƯ, H’HRƯ, H’HYƯ, H’HI đã trộm cắp 48 con lăn bằng kim loại và 426m dây đồng rồi chuyển các tài sản này ra bên ngoài hàng rào cho H’K để đem đến chỗ xe mô tô. Sau đó, các đối tượng đem tài sản trộm cắp đến khu vực đất trống thuộc địa phận xã Chư Á, TP. Pleiku đốt các sợi dây đồng để lấy đồng rồi H’HRƯ và H’HI mang các tài sản trên đi đến tiệm phế liệu của ông Nguyễn Vinh Q bán được số tiền 3.000.000 đồng và chia đều cho những người tham gia.

Đến khoảng 14h00’ cùng ngày, HHYƯ, H’HRƯ và H’HI tiếp tục vào khu vực nhà máy gạch trên lén lút trộm cắp 20 con lăn và 81kg sắt phế liệu. Sau đó đem bán tại tiệm phế liệu của ông Quyền được số tiền 500.000 đồng và chia nhau tiêu xài.

Đến khoảng 05h00’ ngày 25/4/2020, 08 đối tượng trên tiếp tục đến nhà máy gạch trên để trộm cắp tài sản nhưng khi các đối tượng vào bên trong nhà máy chưa lấy được tài sản thì bị phát hiện truy đuổi nên bỏ chạy. Đến 08h45’ cùng ngày, sợ hành vi trộm cắp tài sản của mình đã bị phát hiện nên các đối tượng trên đã đến cơ quan chức năng tự thú và khai nhận về hành vi của mình.

Tại Kết luận định giá tài sản số 08/KL-ĐGTS ngày 16/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Chư Păh, kết luận: tài sản phát hiện mất sáng ngày 23/4/2020 có tổng giá trị là 21.636.230 đồng, tài sản phát hiện mất chiều ngày 23/4/2020 có tổng giá trị 1.464.500 đồng.

Vật chứng:

- 59 con lăn bằng kim loại dài 25cm, đường kính 06cm; 05 con lăn bằng kim loại dài 18cm, đường kính 09cm; 01 con lăn bằng kim loại dài 21cm, đường kính 09cm; 02 con lăn bằng kim loại dài 85cm, đường kính 06cm; 01 con lăn bằng kim loại dài 85cm, đường kính 06cm; 19 kg dây kim loại màu đồng; 81 kg sắt phế liệu. Hiện Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Păh đã trả cho Công ty cổ phần khoáng sản và vật liệu xây dựng Gia Lai.

-04 cái gùi được đan bằng sợi dây kim loại; 01 cái gùi được đan bằng tre; 06 cái sọt được đan bằng tre; 01 thanh gỗ dài 1,33m, rộng 06cm, day 04cm; 01 thanh gỗ dài 1,28m, rộng 06cm, dày 04cm; 01 cái liềm.

Về dân sự:

- Ông Nguyễn Vinh Quyền đã được H’K, HHYƯ, H’NH, H’HR, H’HYƯM, H’HI, H’LY và H’YẼ bồi thường tổng số tiền 3.500.000 đồng và không có yêu cầu gì khác.

- Ông Châu Kinh Q (đại diện theo uỷ quyền của Công ty Cổ phần khoáng sản và vật liệu xây dựng Gia Lai) khai những người đã trộm cắp tài sản bồi thường số tiền 24.000.000 đồng xong. Ông không có yêu cầu bồi thường gì khác và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đối với các xe mô tô mà các bị cáo đã sử dụng để đi trộm cắp. Qua điều tra xác định các xe trên là của các ông THẤT, HUÊN và bà H’THẢO. Khi các bị cáo sử dụng các xe mô tô này để đi trộm cắp tài sản thì những người này đều không biết, do đó Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Păh không thu giữ các xe mô tô này và không xem xét, xử lý Tại bản cáo trạng số: 28/CT-VKS ngày 09 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai đã truy tố các bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17, 38, 58; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo HHYƯ và H’HRƯ mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng đến 24 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 101; Điều 17, 65 Bộ luật hình sự .

Xử phạt bị cáo H’HI mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 tháng đến 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17, 58; Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo H’K H’HYƯ mức án từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo H’Kung già yếu, bị cáo H’Hyưm đang nuôi con nhỏ, không có nghề nghiệp, công việc, thu nhập ổn định nên không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;

Điều 58; Điều 17; Điều 100 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo H’NH mức án từ 06 tháng đến 09 tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo dưới 18 tuổi nên không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Hình phạt bổ sung: không Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

-Tịch thu tiêu hủy: -04 cái gùi được đan bằng sợi dây kim loại; 01 cái gùi được đan bằng tre; 06 cái sọt được đan bằng tre; 01 thanh gỗ dài 1,33m, rộng 06cm, day 04cm; 01 thanh gỗ dài 1,28m, rộng 06cm, dày 04cm; 01 cái liềm, do không còn giá trị sử dụng.

Trách nhiệm dân sự: Không -Ý kiến của người đại diện theo ủy quyền của bị hại: Ông Châu Kinh Q (đại diện theo uỷ quyền của Công ty Cổ phần khoáng sản và vật liệu xây dựng Gia Lai) đã nhận số tiền của các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bồi thường 24.000.000 đồng. Ông Q không yêu cầu gì them và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

-Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo H’ Nh và H’ Hi: cho rằng khi phạm tội do bị cáo chưa đủ tuổi thành niên, là người dân tộc thiểu số, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, sống ở vùng kinh tế khó khăn, người bị hại tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo không bị tình tiết tăng nặng nào lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị áp dụng Điều 100 BLHS xử 02 bị cáo hình phạt 6 tháng cải tạo không giam giữ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, thống nhất bản luận tội của Đại diện viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi,tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo bị truy tố:

Khoảng 10h00’ ngày 23/4/2020, tại nhà máy gạch thuộc Công ty cổ phần khoáng sản và vật liệu xây dựng Gia Lai ở thôn 9, xã Nghĩa Hưng, huyện Chư Păh, lợi dụng khu vực nhà máy vắng vẻ, không có người trông coi nên H’K, HHYƯ, H’NH, H’HRƯ, H’HYƯ, H’HI, H’LY và H’YẼ đã lén lút chiếm đoạt 48 con lăn bằng kim loại và 426m dây đồng có tổng giá trị là 21.636.230 đồng. Khoảng 14h00’ cùng ngày, tại địa điểm trên, HHYƯ, H’HRƯ và H’HItiếp tục lén lút chiếm đoạt 20 con lăn bằng kim loại và 81kg sắt phế liệu có tổng giá trị là 1.464.500 đồng.

[2] Về chứng cứ của vụ án:

Tại Kết luận định giá tài sản số 08/KL-ĐGTS ngày 16/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Chư Păh, kết luận: tài sản phát hiện mất sáng ngày 23/4/2020 do H’K, HHYƯ, H’NH, H’HRƯ, H’HYƯ, H’HI, H’LY và H’YẼ chiếm đoạt có tổng giá trị là 21.636.230 đồng; Tài sản phát hiện mất chiều ngày 23/4/2020 do HHYƯ, H’HRƯ và H’HI chiếm đoạt có tổng giá trị 1.464.500 đồng.

[3] Về lời khai của các bị cáo:

Lời khai của các bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án.

[4] Từ những cơ sở, chứng cứ nêu trên có đủ căn cứ kết luận:

Hành vi của H’K, HHYƯ, H’NH, H’HRƯ, H’HYƯ, H’HI, đã lén lút lấy tài sản của nhà máy gạch thuộc Công ty cổ phần khoáng sản và vật liệu xây dựng Gia Lai, có tổng giá trị là 21.636.230 đồng nên phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản theo quy định của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tuy H’LY và H’YẼ đã cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với các bị cáo trên vào sáng ngày 23/4/2020. Nhưng khi thực hiện hành vi các đối tượng này đều chưa đủ 16 tuổi, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý hành chính là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của người khác trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm đối với các bị cáo để cải tạo giáo dục đối với các bị cáo đồng thời nhằm răn đe đối với người khác, tạo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo đều có nhân thân tốt, không bị tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội tự nguyện đến cơ quan Công an huyện Chư Păh tự thú; các bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; là người dân tộc thiểu số thuộc vùng khó khăn, có trình độ văn hóa thấp, bị hại xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, i, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự.

[6] Về ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo, HĐXX thấy: Bị cáo H’NHI, và H’HILA là người dưới 18 tuổi, dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế, có nhiều tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại các Điểm b, i, r, s Khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, không bị tình tiết tăng nặng, nên chấp nhận áp dụng Điều 98;

Điều 100 BLHS cho bị cáo H’NHI và bị cáo H’HILA hình phạt cải tạo không giam giữ. Tuy hai bị cáo đều dưới 18 tuổi nhưng bị cáo H’HILA là người thực hiện một cách tích cực nhất và còn tham gia thêm lần thứ hai nữa (lần này chưa đủ định lượng) nên hình phạt đối với H’ HILA phải cao hơn.

Các bị cáo HHYƯ, H’HRƯ và H’HI, có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy không cần phải bắt các bị cáo chấp hành hình phạt tù cách ly khỏi đời sống xã hội mà áp dụng cho 03 bị cáo hình phạt tù cho hưởng án treo. Còn bị cáo H’K là người lớn tuổi (60 tuổi), H’NH dưới 18 tuổi và H’HYƯ đang nuôi con nhỏ, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục riêng cho các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[7] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có tài sản, không có công việc làm, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về vật chứng: 59 con lăn bằng kim loại dài 25cm, đường kính 06cm; 05 con lăn bằng kim loại dài 18cm, đường kính 09cm; 01 con lăn bằng kim loại dài 21cm, đường kính 09cm; 02 con lăn bằng kim loại dài 85cm, đường kính 06cm; 01 con lăn bằng kim loại dài 85cm, đường kính 06cm; 19 kg dây kim loại màu đồng;

81 kg sắt phế liệu. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Păh đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

-04 cái gùi được đan bằng sợi dây kim loại; 01 cái gùi được đan bằng tre; 06 cái sọt được đan bằng tre; 01 thanh gỗ dài 1,33m, rộng 06cm, dày 04cm; 01 thanh gỗ dài 1,28m, rộng 06cm, dày 04cm; 01 cái liềm, đây là công cụ phạm tội, xét thấy không còn giá trị sử dụng nên tich thu tiêu huỷ.

[9] Về trách nhiệm dân sự:

- Ông Châu Kinh Q (đại diện theo uỷ quyền của Công ty Cổ phần khoáng sản và vật liệu xây dựng Gia Lai) đã nhận số tiền 24.000.000 đồng của các bị cáo bồi thường xong. Ông Q không có yêu cầu gì khác về dân sự nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

- Ông Nguyễn Vinh Quyền đã được H’K, HHYƯ, H’NH, H’HRƯ, H’HYƯ, H’HI, H’LY và H’YẼ đã trả lại số tiền 3.500.000 đồng, Ông Q không có yêu cầu gì khác.

[10] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Chư Păh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[11] Về án phí: Các bị cáo H’K, HHYƯ, H’NH, H’HRƯ, H’HYƯ và H’HI phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo: H’K, HHYƯ, H’NH, H’HRƯ, H’HYƯ và H’HI phạm tội "Trộm cắp tài sản".

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, r, s khoản 1, 2 Điều 51; Điu 17, Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo HHYƯ 10 (mười ) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 20 (hai mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo H’HRƯ 10 (mười ) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 20 (hai mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, r, s khoản 1, 2 Điều 51; Điu 17 Điều 58; Điều 65; Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo H’HI 07 (bảy) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 14 (mười bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo HHYƯ cho UBND phường Thắng Lợi, thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai; Giao bị cáo H’HRƯ và H’HI cho UBND xã Chư Á, thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Người được hưởng án treo thực hiện nghĩa vụ theo Điều 87; Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 36; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo H’HYƯ 10 (mười ) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND cấp xã nơi bị cáo cư trú nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Xử phạt bị cáo H’K 10 (mười) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND cấp xã nơi bị cáo cư trú nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Giao bị cáo H’K cho UBND phường Thắng Lợi, thành phố Plei Ku và H’HYƯ cho UBND xã Chư Á, thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai giám sát và giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Người bị cải tạo không giam giữ thực hiện nghĩa vụ theo Điều 99; Điều 100; Điều 101 của Luật thi hành án hình sự.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điu 58; Điều 100 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo H’NH 07 (bảy) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND cấp xã nơi bị cáo cư trú nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Giao bị cáo H’NH cho UBND phường Thắng Lợi, thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai giám sát và giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Người bị cải tạo không giam giữ thực hiện nghĩa vụ theo Điều 99; Điều 100; Điều 101 của Luật thi hành án hình sự.

Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

-Tịch thu tiêu hủy: 04 cái gùi được đan bằng sợi dây kim loại; 01 cái gùi được đan bằng tre; 06 cái sọt được đan bằng tre; 01 thanh gỗ dài 1,33m, rộng 06cm, dày 04cm; 01 thanh gỗ dài 1,28m, rộng 06cm, dày 04cm; 01 cái liềm.

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/11/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chư Păh và Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai).

- Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Buộc các bị cáo H’K, HHYƯ, H’NH, H’HRƯ, H’HYƯ và H’HI, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng Điều 331 và điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (25/12/2020) lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để xin xét xử phúc thẩm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về