TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 32/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 191/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp "Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 191/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 74/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thiên D, sinh năm: 1987 Địa chỉ: K220/11 đường N, phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Đỗ Quốc H, sinh năm: 1977 Nơi ĐKHKTT: K18/6 đường T, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng Chỗ ở: 97 đường N, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
-Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị Thiên D trình bày:
Về hôn nhân: Bà Trần Thị Thiên D và ông Nguyễn Đỗ Quốc H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 125, Quyển số I/2009 ngày 28/10/2009. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống nhiều nơi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông H không chăm lo vấn đề kinh tế trong gia đình, thiếu trách nhiệm với vợ con, thường xuyên uống rượu bia say xỉn. Mâu thuẫn đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Ông bà đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay, không còn quan tâm lẫn nhau. Bà Trần Thị Thiên D xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Đỗ Quốc H.
Về con chung: Bà Trần Thị Thiên D xác định bà và ông Nguyễn Đỗ Quốc H có 01 con chung là Nguyễn Trần Huy H, sinh ngày 27/11/2011. Hiện nay con chung đang sống với ông Nguyễn Đỗ Quốc H. Khi Tòa án giải quyết ly hôn bà và ông Nguyễn Đỗ Quốc H thống nhất giao con chung cho ông Nguyễn Đỗ Quốc H trực tiếp nuôi dưỡng, bà không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thị Thiên D xác định bà và ông Nguyễn Đỗ Quốc H không có tài sản chung và nợ chung.
- Bị đơn ông Nguyễn Đỗ Quốc H đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, tuy nhiên ông vẫn vắng mặt, Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của ông tại nơi cư trú, theo đó ông Nguyễn Đỗ Quốc H khai như sau:
Về quan hệ hôn nhân: ông Nguyễn Đỗ Quốc H và và Trần Thị Thiên D kết hôn năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng. Hai vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do không cùng quan điểm sống, không hợp nhau, bà Trần Thị Thiên D tự ý bỏ đi. Nay bà Trần Thị Thiên D yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về con chung: Ông Nguyễn Đỗ Quốc H xác nhận ông và bà Trần Thị Thiên D có 01 con chung là Nguyễn Trần Huy H, sinh ngày 27/11/2011, hiện con chung đang sống với ông. Trong trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn ông xin được nuôi con chung, không yêu cầu bà Trần Thị Thiên D cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: ông Nguyễn Đỗ Quốc H xác định ông và bà Trần Thị Thiên D không có.
-Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng:
Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã tuân theo đúng pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử.
Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
Thư ký đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại khoản 5 Điều 51 Bộ luật tố tụng dân sự.
Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến thời điểm mở phiên tòa, người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt đã không chấp hành các quy định của pháp luật.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thiên D đối với ông Nguyễn Đỗ Quốc H: Về hôn nhân: Cho bà Trần Thị Thiên D được ly hôn với ông Nguyễn Đỗ Quốc H. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Trần Huy H cho ông Nguyễn Đỗ Quốc H trực tiếp nuôi dưỡng, ông Nguyễn Đỗ Quốc H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập đến; Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự đều xác định không có nên đề nghị Tòa án không giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Nguyễn Đỗ Quốc H cư trú tại phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.3]. Bị đơn ông Nguyễn Đỗ Quốc H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do nên nên Hội đồng xét xử vắng bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung vụ án:
[2.1]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Thị Thiên D và ông Nguyễn Đỗ Quốc H xác lập trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Bà Trần Thị Thiên D và ông Nguyễn Đỗ Quốc H đều xác định trong quá trình chung sống giữa vợ chồng ông bà có phát sinh nhiều mâu thuẫn, theo bà Trần Thị Thiên D khai nguyên nhân mâu thuẫn là do ông H chưa làm tròn trách nhiệm với gia đình, có uống rượu bia say xỉn còn ông H xác định nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, bà D tự ý bỏ đi. Ông bà đã sống ly thân 04 năm.
Theo xác minh, chính quyền địa phương không cung cấp được nguyên nhân mâu thuẫn giữa các đương sự, chỉ cho biết thông tin hiện nay bà D và ông H không còn sống chung. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng, triệu tập hợp lệ nhưng ông Nguyễn Đỗ Quốc H vẫn vắng mặt không có lý do, Tòa án chỉ ghi được ý kiến của ông H tại nơi cư trú, ông đề nghị Tòa án giải quyết quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật.
Hội đồng xét xử thấy rằng giữa các bên đương sự có mâu thuẫn dẫn đến việc sống ly thân là có thật, việc ông H không đến tham gia hòa giải, không tham gia phiên tòa cho thấy ông không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, đời sống chung giữa bà Trần Thị Thiên D và ông Nguyễn Đỗ Quốc H đã không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị Thiên D phù hợp Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Trần Thị Thiên D được ly hôn với ông Nguyễn Đỗ Quốc H.
[2.2]. Về con chung: Bà Trần Thị Thiên D và ông Nguyễn Đỗ Quốc H đều xác định vợ chồng bà có 01 con chung chưa thành niên, hiện nay đang sống với ông H. Khi ly hôn ông bà đều thống nhất giao con cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng, bà D không cấp dưỡng nuôi con chung.
Hội đồng xét xử xét thấy: các bên đương sự đều thống nhất giao con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng, thực tế hiện nay con chung đang sống cùng với ông Nguyễn Đỗ Quốc H, theo kết quả xác minh tại địa phương thì trong quá trình được ông H nuôi dưỡng con chung phát triển bình thường, con đã trên 07 tuổi cũng có nguyện vọng được ở với cha. Căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của bà Trần Thị Thiên D, giao con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên.
[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Đỗ Quốc H không yêu cầu bà Trần Thị Thiên D cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. [2.4] Về tài sản chung và nợ chung: bà Trần Thị Thiên D và ông Nguyễn Đỗ Quốc H đều xác định ông bà không có, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì bà Trần Thị Thiên D phải chịu 300.000 đồng án phí tranh chấp hôn nhân và gia đình.
[4]. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
[5]. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình; Điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” của bà Trần Thị Thiên D đối với ông Nguyễn Đỗ Quốc H.
1. Về hôn nhân:
Bà Trần Thị Thiên D được ly hôn với ông Nguyễn Đỗ Quốc H.
2. Về con chung:
Giao con chung Nguyễn Trần Huy H, sinh ngày 27/11/2011 cho ông Nguyễn Đỗ Quốc H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên.
Bà Trần Thị Thiên D không cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con.
3. Án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Trần Thị Thiên D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bà Trần Thị Thiên D đã nộp theo biên lai thu số: 0009217 ngày 24 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận H, thành phố Đà Nẵng.
4. Bà Trần Thị Thiên D có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Ông Nguyễn Đỗ Quốc H vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết.
Bản án 32/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung
Số hiệu: | 32/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về