Bản án 32/2020/HNGĐ-ST ngày 26/10/2020 về kiện xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 32/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/10/2020 VỀ KIỆN XIN LY HÔN

Ngày 26 tháng 10 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 125/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020 về tranh chấp kiện xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 9 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2020/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2020, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Vũ Minh H, sinh năm 1998.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Ô.M, xã T.A, huyện BL, tỉnh Hà Nam.

Địa chỉ hiện nay: Quốc lộ 27 HT, xã QS, huyện NS, tỉnh Ninh Thuận.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Thôn 1, xã ĐX, thành phố PL, tỉnh Hà Nam.

Chị Hường có đơn xin xử vắng mặt, anh S vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, lời khai của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án thì nội dung vụ án như sau:

Chị Vũ Minh H và anh Nguyễn Văn S kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, trước khi kết hôn có thời gian tìm hiểu nhau khoảng một năm thì được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán của địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đinh Xá, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam vào ngày 13 tháng 02 năm 2019. Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống tại gia đình nhà chồng ở thôn 1, xã Đinh Xá, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Trong cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do kinh tế không ổn định, anh S thường xuyên gây gổ, xúc phạm danh dự chị H. Do không thể khuyên giải được chồng, chị H đã về nhà mẹ đẻ ở thôn Ô.M, xã T.A, huyện BL, tỉnh Hà Nam sinh sống từ tháng 8 năm 2019 và vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn S.

Về con chung: Chị Hường xác định vợ chồng không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Con nuôi, con riêng: không có.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ: Chị H không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Văn S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh S vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó Tòa án không lấy được lời khai của anh S.

* Ông Nguyễn Văn Dương là bố đẻ anh Nguyễn Văn S có quan điểm: Anh Nguyễn Văn S hiện đang ở cùng nhà với gia đình ông, gia đình ông đã nhận được thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập, anh S đã biết được các văn bản tố tụng của Tòa nhưng anh S có lên Tòa theo giấy triệu tập không thì ông không nắm được. Trong quá trình chung sống vợ chồng anh S phát sinh nhiều mâu thuẫn, gia đình đã khuyên bảo các con về đoàn tụ nhưng mâu thuẫn đã quá trầm trọng, nên anh S và chị Hường đã sống ly thân. Nay chị Hường có đơn xin ly hôn, gia đình rất muốn các con đoàn tụ, tuy nhiên Tòa án cũng nên xem xét đến nguyện vọng của chị Hường và anh S để giải quyết, về tài sản chung, riêng của chị Hường và anh S: Trong cuộc sống anh S và chị Hường sống cùng gia đình ông không có đóng góp gì vào khối tài sản chung của gia đình ông. Về công nợ của vợ chồng anh S ông không nắm được.

* Quan điểm của chính quyền địa phương: Chị Vũ Minh Hường và anh Nguyễn Văn S trong quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn, quá trình hòa giải tại địa phương anh S đều vắng mặt không có lý do. Nay chị Hường có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật, về con chung vợ chồng chị Hường không có con chung, về tài sản, công nợ của vợ chồng địa phương không nắm được.

* Tại phiên toà hôm nay: Chị H vắng mặt đã có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên quan điểm như đã trình bày trước đó tại Tòa án. Bị đơn anh Nguyễn Văn S vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần và không có văn bản gửi Tòa nêu quan điểm về việc giải quyết vụ án.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, những người tham gia tố tụng, ý kiến về việc giải quyết vụ án.

- Ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký:

+ Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn như thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục, thời gian, tiến hành xác minh thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

+ Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và Thư ký tại phiên tòa: Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn chưa thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Sau khi trình bày và phân tích các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xem xét quan điểm, nguyện vọng của các đương sự tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định:

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 68, 144, 147, 227, 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 51, 56, 57 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Vũ Minh H. Xử ly hôn giữa chị Vũ Minh H và anh Nguyễn Văn S.

2/ Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thẩm quyền: Bị đơn anh Nguyễn Văn S có hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Thôn 1, xã Đinh Xá, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án tranh chấp xin ly hôn giữa chị Vũ Minh Hường và anh Nguyễn Văn S thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

[2] Về hôn nhân: Cuộc hôn nhân giữa chị Vũ Minh H và anh Nguyễn Văn S là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 13 tháng 02 năm 2019 tại UBND xã Đinh Xá, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam thỏa mãn với điều kiện, thủ tục kết hôn được Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 bảo vệ.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Minh H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Chị H và anh S đã có một thời gian tìm hiểu nhau sau đó mới tiến tới hôn nhân, sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau một thời gian ngắn đã xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn của hai vợ chồng chủ yếu do vấn đề kinh tế, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung nên xảy ra cãi vã, xúc phạm danh dự của nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2019 đến nay và không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay chị H có đơn xin ly hôn, anh S không có quan điểm gì về cuộc hôn nhân cũng cho thấy anh không quan tâm đến cuộc hôn nhân này. Xét thấy cuộc sống chung giữa chị H và anh S không đạt được mục đích hôn nhân hạnh phúc, tiến bộ, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử ly hôn giữa chị H và anh S là phù hợp với thực tế và đúng pháp luật.

[3] Về con chung, con nuôi, con riêng: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Vũ Minh H phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 68; Điều 144; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273; Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

- Áp dụng các Điều 51; 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Xử ly hôn giữa chị Vũ Minh H và anh Nguyễn Văn S.

2/ Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Vũ Minh H phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Chị H được đối trừ với 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số AA/2015/0004571 ngày 14 tháng 8 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, chị H đã nộp đủ án phí.

Quyền kháng cáo đối với bản án: Chị H và anh S vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HNGĐ-ST ngày 26/10/2020 về kiện xin ly hôn

Số hiệu:32/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:26/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về