Bản án 32/2020/HNGĐ-PT ngày 23/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 32/2020/HNGĐ-PT NGÀY 23/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 42/2020/TLPT-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn.

Do Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 23/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 của Tòa án nhân dân quận DK, thành phố Hải Phòng có kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 233/2020/QĐ-PT ngày 02 tháng 11 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 244/2020/QĐ-PT ngày 16 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn H, nơi ĐKHKTT: Số 42 đường 15 khu tái định cư Phú Hải, khu Phú Hải 3, phường Anh Dũng, quận DK, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 361 Văn Cao, phường Đằng Lâm, quận Hải An, thành phố Hải Phòng; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Mạnh Hà, Luật sư Văn phòng Luật sư Nguyên Minh - Đoàn Luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.

2. Bị đơn: Chị Bùi Thị Thanh M, nơi cư trú: Số 42 đường 15 khu tái định cư Phú Hải, khu Phú Hải 3, phường Anh Dũng, quận DK, thành phố Hải Phòng; có mặt.

3. Người kháng cáo: Anh Nguyễn Văn H là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các bản tự khai của nguyên đơn là Nguyễn Văn H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Bùi Thị Thanh M kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Niệm Nghĩa, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng năm 2003. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất hòa trong cuộc sống, không có sự tôn trọng và tin tưởng nhau trong quan hệ tình cảm. Từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xô xát. Anh và chị Mai đã được hai bên gia đình động viên, khuyên bảo, hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, căng thẳng. Từ tháng 8 năm 2019 đến nay, anh và chị Mai đã sống ly thân, anh đã đưa hai con về nhà bố mẹ đẻ ở địa chỉ: Số 361 Văn Cao, phường Đằng Lâm, quận Hải An sinh sống. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Bùi Thị Thanh M.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là cháu Nguyễn Văn Huân, sinh ngày 10 tháng 02 năm 2004, cháu Nguyễn Quang Anh, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2007, hai cháu đang sống với anh, khi ly hôn anh đề nghị được trực tiếp nuôi hai con. Về cấp dưỡng, anh không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về tài sản, công nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, anh không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn là chị Bùi Thị Thanh M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị đồng ý với anh Huy về thời gian kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đã có 02 con chung như anh Huy trình bày. Quá trình chung sống đến thời gian gần đây thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Huy có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Chị và anh Huy đã một lần ra Tòa án quận Lê Chân để giải quyết ly hôn nhưng sau đó chị đã rút đơn lại để vợ chồng đoàn tụ. Đến nay, anh Huy vẫn không thay đổi, tiếp tục không chung thủy trong quan hệ vợ chồng. Nay anh Huy xin ly hôn, chị cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn và không hòa giải được nhưng chị chưa muốn ly hôn thời điểm này vì hai con còn nhỏ. Tuy nhiên, nếu anh Huy vẫn kiên quyết giữ ý kiến xin ly hôn thì chị cũng đồng ý. Về con chung: Chị đề nghị được giao hai cháu Nguyễn Văn Huân và cháu Nguyễn Quang Anh cho chị trực tiếp nuôi dưỡng vì không muốn hai con phải sống mỗi người một nơi. Trường hợp anh Huy không đồng ý thì chị có nguyện vọng được nuôi cháu nhỏ là Nguyễn Quang Anh. Về cấp dưỡng, chị không yêu cầu. Về tài sản chung, chị và anh Huy tự thỏa thuận không yêu cầu tòa án giải quyết, đề nghị anh Huy hoàn thiện thủ tục sang tên cho chị căn nhà chị đang ở để chị ổn định cuộc sống.

Tại Bản án số 23/2020/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận DK, thành phố Hải Phòng đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 51, các điều 56, điều 81, điều 82 và điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; các điều 28, điều 35, điều 39, điều 147 và điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Nguyễn Văn H ly hôn chị Bùi Thị Thanh M.

2. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Văn Huân, sinh ngày 10 tháng 02 năm 2004 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho chị Bùi Thị Thanh M trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Quang Anh, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2007 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, hai vợ chồng tự thỏa thuận.

Không ai được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.

Ngoài ra bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11 tháng 9 năm 2020, anh Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo không đồng ý việc Tòa án cấp sơ thẩm giao con là cháu Nguyễn Quang Anh cho chị Bùi Thị Thanh M nuôi dưỡng, anh đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giao con Nguyễn Quang Anh, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2007 cho anh nuôi.

Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử giao cả hai con chung cho anh Huy nuôi dưỡng, bởi lẽ: Cả hai cháu đều có nguyện vọng ở với bố, việc anh Huy nuôi cả hai con sẽ đảm bảo sự phát triển bình thường về mọi mặt của cả hai con.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng các quyền và nghĩa vụ, tham gia phiên tòa theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét kháng cáo của anh Nguyễn Văn H: Anh Huy và chị Mai đều có nguyện vọng nuôi cả hai con chung là Nguyễn Văn Huân, sinh ngày 10 tháng 02 năm 2004 và Nguyễn Quang Anh, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2007. Quá trình giải quyết, hai cháu đều có nguyện vọng tiếp tục ở với anh Huy. Tại phiên tòa cả hai cháu có mặt và đều có nguyện vọng ở với bố. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Văn H, sửa một phần bản án sơ thẩm: Giao cả hai con là cháu Nguyễn Văn Huân, sinh ngày 10 tháng 02 năm 2004 và Nguyễn Quang Anh, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2007 cho anh Nguyễn Văn H nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con vợ chồng tự thỏa thuận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án và sau khi tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình về việc tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn là anh Nguyễn Văn H kháng cáo do đó Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

- Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Văn H:

[2] Về việc nuôi con chung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Anh Nguyễn Văn H và chị Bùi Thị Thanh M đều là người có công việc, có thu nhập và có đủ điều kiện về kinh tế, về tình cảm để nuôi dưỡng và chăm sóc con chung. Tuy nhiên trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án có nhận được đơn của cháu Nguyễn Quang Anh, nội dung đơn thể hiện cháu có nguyện vọng tha thiết được ở với bố và anh trai. Tại phiên tòa cả cháu Nguyễn Văn Huân và cháu Nguyễn Quang Anh cũng trình bày ý kiến về tình cảm và trách nhiệm với mẹ, các cháu không quên nhưng đề nghị Tòa án xem xét cho anh em cháu được ở cùng nhau và do bố trực tiếp nuôi dưỡng.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu Nguyễn Quang Anh hiện nay đã 13 tuổi, từ sau khi anh Huy, chị Mai sống ly thân, anh Huy và hai con sống cùng ông bà nội, anh Huy vẫn đảm bảo việc chăm sóc và nuôi dưỡng con chung tốt, hai cháu hiện đang học tập và sinh hoạt ổn định. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2015 thì khi giải quyết việc ly hôn thì phải xem xét nguyện vọng của con là mong muốn sống với cha hay sống với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Như vậy, xác định việc giao các con chưa thành niên cho người cha hay người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng cần phải đảm bảo về quyền lợi chính đáng của các con vì việc nuôi và chăm sóc con vừa là quyền nhưng cũng vừa là nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Để đảm bảo việc nuôi dưỡng và chăm sóc con chung của cả người cha và người mẹ cũng như điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của các bên, sự ổn định về học tập, sinh hoạt, tâm lý của các cháu, Hội đồng xét xử thấy cần giao cho anh Huy nuôi hai con chung là cháu Nguyễn Văn Huân, sinh ngày 10 tháng 02 năm 2004 và Nguyễn Quang Anh, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2007 là phù hợp với điều kiện thực tế và quy định của pháp luật.

[4] Từ nhận định trên, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn là anh Nguyễn Văn H và quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tại phiên tòa, căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa một phần Bản án sơ thẩm về việc nuôi con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Văn Huân, sinh ngày 10 tháng 02 năm 2004 và cháu Nguyễn Quang Anh, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2007 cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con, hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn được chấp nhận và sửa Bản án sơ thẩm nên anh Huy không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 148, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27, khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

Chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Văn H, sửa một phần Bản án sơ thẩm số 23/2020/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận DK, thành phố Hải Phòng:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Nguyễn Văn H ly hôn chị Bùi Thị Thanh M.

2. Về con chung: Giao hai con chung là cháu Nguyễn Văn Huân, sinh ngày 10 tháng 02 năm 2004 và Nguyễn Quang Anh, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2007 cho anh Nguyễn Văn H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, hai bên tự thỏa thuận cho đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Anh Huy và chị Mai không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí:

Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí Tòa án số AA/2014/0014326 ngày 11 tháng 02 năm 2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận DK, thành phố Hải Phòng. Anh Nguyễn Văn H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Anh Nguyễn Văn H không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm, trả lại cho anh Huy 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0013273 ngày 14 tháng 9 năm 2020 tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận DK, thành phố Hải Phòng.

5. Về quyền thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HNGĐ-PT ngày 23/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:32/2020/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về