Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 17/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 17/7/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 148/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2019/QĐXXST-DS ngày 26/6/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ma Thị H, sinh năm 1998 (có mặt).

Nơi cư trú: Thôn C, xã M, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1996

Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã Đ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Hiện đang chấp hành án: Tại Trại giam Tống Lê Chân, địa chỉ: Xã Minh Tâm, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước (vắng mặt, đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 16/4/2019 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Ma Thị H trình bày: Tôi kết hôn với anh Nguyễn Văn T ngày 02/10/2017, trước khi cưới có được tìm hiểu, tự nguyện thỏa thuận, đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến tháng 11/2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, do tìm hiểu không kỹ nên khi đó anh T bị Công an bắt, sau đó Tòa án đưa ra xét xử, hiện anh T đang chấp hành án. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ ngày 15/11/2017. Nay tôi thấy không còn tình cảm vợ chồng, đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản gì đáng giá, nên tôi không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T xác nhận một phần lời khai của chị H và trình bày; Quá trình chung sống vợ chồng không có hạnh phúc. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên tôi đồng ý ly hôn chị H. Vợ chồng chưa có con chung. Vợ chồng không có tài sản gì đáng giá, nên tôi không đề nghị Tòa án giải quyết. Vì hiện tại tôi vi phạm pháp luật, đang chấp hành án tại Trại giam Tống Lê Chân, địa chỉ: Xã Minh Tâm, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Nên tôi đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang không mở phiên họp và Hòa giải, mà đưa vụ án ra xét xử để giải quyết cho chúng tôi được ly hôn, tôi đề nghị xét xử vắng mặt tôi và sau đó thông báo kết quả xét xử cho tôi biết.

Tại phiên toà hôm nay anh T vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Chị H có mặt vẫn thiết tha xin được ly hôn anh T.

Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của thẩm phán, thư ký, hội thẩm nhân dân, chị H, anh T trong suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay anh T vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt; do vậy đề nghị HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật. Đề nghị xét xử cho chị H được ly hôn anh T; vợ chồng chưa có con chung; Về tài sản: Chị H, anh T không đề nghị Tòa án giải quyết, nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết; chị H là người dân tộc Tày sinh sống tại xã miền núi vùng cao có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ, nên miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm cho chị H. Ngoài ra còn đề nghị tuyên quyền kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về quan hệ pháp luật tranh chấp, phạm vi khởi kiện và thẩm quyền giải quyết:

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 16/4/2019 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Chị Ma Thị H, sinh năm 1998, nơi cư trú: Thôn C, xã M, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1996, Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã Đ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang; Ban đầu chấp hành án: Buồng 2 – C2 Trại tạm giam Bố Lá, xã Phước Hòa, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; nay chuyển chấp hành án tại Trại giam Tống Lê Chân, địa chỉ: Xã Minh Tâm, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước; vợ chồng chưa có con chung; không đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản. Như vậy đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hôn nhân và gia đình, đề nghị xin được ly hôn, vợ chồng chưa có con chung và không đề nghị giải quyết về tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

* Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Ma Thị H kết hôn với anh Nguyễn Văn T ngày 02/10/2017, trên cơ sở tự nguyện hợp pháp, đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến tháng 11/2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, mặt khác phía anh T đang chấp hành án. Nên mâu thuẫn càng căng thẳng không hòa thuận được. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn cả chị H và anh T đều thỏa thuận xin được ly hôn. Nhưng vì anh T đang chấp hành án tại Trại giam Tống Lê Chân, địa chỉ: Xã Minh Tâm, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước, nên anh T đề nghị Tòa án không mở phiên họp và Hòa giải, mà đề nghị đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh T, sau đó thông báo kết quả cho anh T biết. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã diễn ra căng thẳng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nguyện vọng xin được ly hôn của chị H, anh T là phù hợp quy định của pháp luật. Do vậy cần xử cho chị H được ly hôn anh T để giải phóng cho cả 2 bên, xét là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về nuôi con chung: Chị H, anh T đều xác định vợ chồng chưa có con chung. Nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về chia tài sản: Quá trình giải quyết vụ án, cả chị H và anh T đều không đề nghị Tòa án giải quyết, tại phiên tòa hôm nay anh T vắng mặt, chị H có mặt không đề nghị Tòa án giải quyết. Nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Ma Thị H là người dân tộc Tày sinh sống tại xã miền núi vùng cao có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của chính phủ, nên miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm cho chị H. Ghi nhận chị H đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2018/0007125 ngày 16/4/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

* Áp dụng Điều 28; 35; 147; 228; 235; 264; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Ma Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2/ Về án phí: Miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm cho chị Ma Thị H. Hoàn trả chị H 300.000đ tiền chị H đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2018/0007125 ngày 16/4/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Báo cho đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án.

Án xử sơ thẩm công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 17/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về